Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DI TINH

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DI TINH

DI TINH
6 Bài thuốc

1. Di tinh
- Sinh địa 300g
- Phục linh 100g
- Thỏ ty tử 300g
- Đỗ trọng 100g
- Xà sàng tử 50g
- Nhân sâm 200g
- Đại hoàng 10g
- Định hương 50g
- Quế khâu 50g
- Hoài sơn 300g
- Hắc táo 200g
- Ngưu tất 100g
- Hoàng tỉnh 100g
- Viễn chí 100g
- Câu kỷ 100g
- Ba kích 10g
- Giấm thanh 10 ml
- Mộc hương 100g
Tán ra, quết với mật làm viên bằng hạt nhãn, tối uống 1 viên trước khi đi ngủ và sáng khi mới thức dậy.

2. Bổ tâm tỳ chữa di tinh hoàn
- Phòng đảng sâm 3 đc
- Táo nhân 4 đc
- Cam thảo 1 đc
- Huỳnh tinh 3 đc
- Khiếm thực 100g
- Ngũ vị tử 1,5 đc
- Xương bồ 1 đc
- Long nhãn 4 đc
- Phục thần 3 ml
- Kim anh tử 5 đc
- Hương phụ 3 đc
- Bạch truật 3 đc
- Hoài sơn 100g
- Sa nhân 5 đc
- Liên nhục 4 đc
- Mạch môn 2 đc
Tán thuốc thành bột mịn, trộn với mật cho kẹo, làm thành viên bằng hột nhãn, uống một viên lúc mới thức đậy và một viên lúc đi ngủ.

3. Mộng di tinh (Tâm hỏa động do dục vọng, do rượu, hỏa động gây mộng di tinh)
Nằm mộng di tinh, ban ngày chóng mặt, đau bụng, mạch sác, để lâu nặng, tai ù, miệng khô, hoạt tinh (ra lúc ban ngày, ban đêm không có chiêm bao): quả hồng dây leo chín, cả đế bổ làm 4, phơi khô, sao qua, tán bột, làm viên 4g. Mỗi ngày 4 - 10 viên. Khó tiểu thì uống với nước rau má.

4. Bổ chân thủy chữa di tinh
- Khiếm thực 10g
- Huỳnh bá 12g
- Mẫu lệ 20g
- Lộc giao 16g
- Kim anh 10g
- Thỏ ty tử 10g
- Bạch linh 8g
- Hoài sơn 28g
- Liên tử 12g
- Thục địa 24g
- Sơn thù 16g (thiếu thay Ô mai)
- Trạch tả 8g (thiếu thay Tỳ giải)
- Đan bì 2 chỉ (thiếu thay Chi tử)
Chữa người gầy, da khô xám, miệng khô, lưỡi khô, ít ngủ, tiểu đỏ, phân táo, ngủ khát nước đêm, tai ù, lưng đau, hay quên, hoạt tỉnh. Tán ra hòa với mật làm viên bằng hột nhãn, uống một viên lúc mới thức và một viên trước khi đi ngủ.

5. Bổ chân hỏa chữa di tinh
- Thục địa 5 đc
- Hoài sơn 5 đc
- Hắc phụ tử 4 đc
- Sơn thù 4 đc
- Khiếm thực 7 đc
- Lộc giao 4 đc
- Bạch linh 2 đc
- Kim anh tử 100g
- Mẫu lệ 5 đc
- Long cốt 3 đc
- Sa nhân 4 đc
- Liên tu 3 đc
- Thỏ ty tử 4 đc
- Liên nhục 3 đc
- Trạch tả 2 đc
- Đỗ trọng 3 đc
- Đan bì 2 đc
- Phá cố chỉ 3 đc
- Nhục quế 2 - 5 đc
Chữa tay chân lạnh, da nhạt, lưng đau, hay sợ, mồm nhạt, tiểu nhiều, di tinh, hoạt tinh, hay quên.

6. Di tinh, liệt dương, ít tinh trùng
Do dương hư, hỏa hư, khí hư, làm tễ cho uống:
- Bạch truật 4 đc
- Bắc phá cố chỉ 2 đc
- Hắc phụ tử 3 đc
- Long cốt 2 đc
- Quế nhục 4,5 đc
- Kỷ tử 2 đc
Uống 15 thang.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.