Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH Ở MIỆNG

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA BỆNH Ở MIỆNG

MIỆNG
38 Bài thuốc

1. Miệng hôi (khẩu xú)
- Cam thảo 1 chỉ, Ô mai 1 chỉ. Mỗi lần dùng 1 vị mà ngậm nuốt nước.
- Hương nhu 7 chỉ, sắc nước ngậm và từ từ nuốt nước thuốc.

2. Khóe miệng lở
- Đâm 1 cọng lục bình dưới sông, và chút son tàu, nhồi thật nhuyễn mà đặt.

3. Miệng lở hoa, sưng
- Đa nhân 2 chỉ, rán cho cháy, tán nhỏ mà xức.
- Đọt mây 1 nắm với tí phèn chua, đâm chung, vắt nước mà rửa miệng đau.

4. Môi lở
- Đốt 1 khúc củi còn tươi loại có dầu (như mù u, tràm, trâm bầu) gạt lấy lớp dầu xì ra ở đầu củi mà bôi môi.
- Tối kỵ: Củi xoài có độc, sẽ ăn lan thêm.

5. Mụn đinh râu (bệnh dễ chết người)
- Mọc theo mép miệng, sẽ làm độc sưng lên hành dữ lắm, mụn nhỏ nhưng gốc sâu, mới phát, nhỏ như hột tấm, ngứa, khó chịu, rồi sưng đỏ, lớn lên, đau nhức như đóng đinh.
* Phép chữa:
- Không nặn mụn, không cạy miệng, không cứu.
- Thoa thuốc mà uống cho mát huyết, tiêu độc.
- Phải chạy chữa kịp thời:
(1). Ban đêm, lấy cứt ráy lỗ tai mà bôi lên mụn.
(2). Cứt ráy với sáp ong, nhồi nhuyễn mà bôi.
(3). Thoa dầu Bạc hà lên mụn.
* Phương thuốc:
+ Bài 1:
- Sài đất 100g
- Cây ké đầu ngựa 20g
- Cỏ Mần trầu 20g
- Cam thảo đất 20g
- Bồ công anh chỉ thiên 20g
Sắc 600 ml lấy 300 ml, chia 2 lần uống trong ngày, trẻ em tùy tuổi bớt liều.
+ Bài 2:
- Ké đầu ngựa 12g
- Cam thảo đất 10g
- Bồ công anh 12g
- Hạ khô thảo 10g
- Cỏ Mần trầu 12g
- Vòi voi 12g
- Kinh giới 10g
- Kim ngân hoa 10g
Sắc 1 lít nước, lấy 300 ml.
Người lớn chia 3 lần uống, trong 2 ngày.
Trẻ em: chia 4 - 5 lần uống.
+ Bài 3:
- Rau má 80g, lá rau muống 80g. Giã nát, vắt nước cốt uống, xác đắp.

6. Rìa môi mụn lở, lâu năm không khỏi
- Lá chàm (hái vào tháng 8 Âm lịch) 1 cân, giã vắt lấy nước cốt rửa.

7. Môi lở nứt đau
- Đào nhân giã nát, trộn mỡ lợn bôi.
- Thanh bì đốt, tán, hòa mỡ lợn bôi.

8. Lở môi
- Lấy mồ hôi trên nắp vung nồi mà bôi.

9. Trẻ miệng lở có đốm trắng như miệng ngỗng (nga khẩu sang)
- Nam tinh bỏ vỏ, nghiền sống, hòa với giấm đắp vào lòng bàn chân, nam tả nữ hữu, ngày thay một lần thì hết lở.

10. Trẻ miệng bị cam lở
- Dùng vỏ cây mía, đốt cháy, tán, rắc vào là khỏi.
- Bạch cương tàm; bỏ đầu, chân, da ngoài; sao vàng, tán, trộn với mật ong bôi.
- Hoàng đơn 1 đc, mật ong 1 lạng cùng trộn đều, nấu lên cho biến sắc đen, dùng lông gà chấm thuốc phết vào.
- Mật đà tăng, tán, trộn với giấm, rịt vào gan bàn chân, khỏi thì rửa đi.

11. Trẻ sưng môi
- Vỏ dâu tằm ăn, cạo bỏ bì thô, giã, vắt lấy nước cốt mà bôi.

12. Trẻ bị tưa lưỡi (đẹn)
- Hoàng liên 1 ít, 1 chén nước hòa chút mật ong, nấu sôi rồi mài Hoàng liên cho uống, ngoài dùng Ngô thù du giã nát xào với giấm rịt vào lòng bàn chân.

13. Lở mép, chảy nước dãi trắng ra mà không ngăn được
- Nam tinh tán, hòa nước cốt gừng phết vào 2 bên mép.

14. Các phương trị tỳ nhiệt, chảy nước dãi luôn
- Hạt bồ kết 2 đc; Bán hạ: 5 phân, nấu nước gừng tẩm 7 lần cùng tán, rưới nước gừng vào, viên bằng hạt gai dầu, 5 viên mỗi lần, uống với nước nóng.
- Gạc hươu đẽo vụn, tán, 1 lần 3 phân, uống với nước cơm.
- Vỏ trắng rễ dâu, giã, vắt lấy nước cốt bôi.

15. Miệng lưỡi lở loét
- Ngưu tất tẩm rượu, ngậm nuốt hoặc sắc lấy nước uống.
- Lá chàm giã sống, vắt lấy nước, rửa hoặc bôi vào chỗ đau, 1 ngày làm nhiều lần, 3 ngày khỏi.
- Củ cải tươi, giã vắt lấy nước cốt, thường ngậm súc nhổ.
- Quả bồ hòn dùng cả nhân với hạt đốt, tán, rắc vào.
- Đậu xị sao cháy, tán, ngậm, 1 đêm là lành.
- Rễ tầm xuân, giũ sạch đất ở rễ, sắc lấy nước đặc, ngậm rồi súc miệng rồi nhổ bỏ, mùa đông thì dùng cả vỏ rễ, mùa hè thì dùng cành lá, bệnh lâu cũng khỏi.

16. Lở miệng vì uống rượu
- Ốc nhồi nấu lấy nước uống.

17. Thối mồm
- Hương nhu 1 nắm, sắc nước đặc ngậm.
- Hoắc hương rửa sạch, nấu lấy nước thường ngậm và súc miệng.
- Nhục quế, Hương phụ, Ô mai, Trần bì đều bằng nhau, tán, viên với mật và nước gừng bằng đầu ngón tay, 1 lần 1 viên ngậm tan dần.
- Quả mơ phơi khô, thường ngậm.
- Hạt dưa đá hoặc dưa hấu, bỏ vỏ, thái mỏng, phơi khô, tán viên với mật ong bằng đầu ngón tay, mỗi sáng súc miệng xong ngậm 1 viên hoặc xát thuốc vào răng.

18. Lưỡi rụt cấm khẩu
- Lá Ngải cứu tươi giã nát, đắp, hoặc lá Ngải cứu khô tẩm nước cho ướt, đắp cũng hay.

19. Trên lưỡi bỗng nhiên máu phun ra như sợi chỉ
- Đậu đỏ 1 thăng, giã nát, hòa với 3 thăng nước, vắt lấy nước trong, chia ra uống.
- Hạt thầu dầu, gói giấy khẽ đập cho dầu thấm ra giấy, cuộn lại, làm mồi đốt, xông khói vào miệng.
- Hoa hòe sao, tán, rắc lên khỏi ngay.
- Hương nhu sắc nước uống 1 thăng, ngày 3 lần là khỏi.
- Bồ hoàng, Thanh đại hòa với nước uống và bôi, hoặc gia Mai mực.
- Ba đậu làm như hạt thầu dầu nói trên.
- Đậu xị 1 cáp, sắc sôi, uống ngày 3 lần.

20. Lưỡi chảy máu
- Mộc tặc sắc nước, ngậm và súc miệng.
- Mai mực (bỏ rìa cứng chung quanh), Bồ hoàng (sao) đều bằng nhau, tán, rắc vào sẽ cầm máu, tiêu sưng.

21. Lưỡi sưng cứng đầy miệng, chậm chữa thì chết
- Bồ hoàng, tán, xức từ tối đến sáng là khỏi.
- Phương trên gia Can khương, 2 vị bằng nhau, tán, bôi.
- Muội nồi, Bồ hóng, củ Rẽ quạt bằng nhau, tán, hòa giấm bôi.

22. Lưỡi sưng, thè ra ngoài miệng
- Hạt thầu dầu gói giấy, đập cho dầu thấm giấy, cuộn giấy ấy đốt, xông khói vào miệng.

23. Lưỡi bỗng nhiên sưng to
- Giấm với muội nồi bôi trên lưỡi, tróc đi lại bôi, 1 chốc là hết sưng.

24. Lưỡi sưng thành hai và tưa lưỡi
- Đậu đỏ tán, hòa giấm, bôi.

25. Lưỡi sưng thành hai kèm theo đau họng
- Tổ ong nướng, tán, trộn với rượu như bùn, xức ngày 3 lần.
- Cua sống 1 con, nướng khô, tán, xức.
- Bồ kết 5 quả (bỏ hết vỏ đen) hạt sao khô, Kinh giới tuệ 2 đc: đều tán, hòa giấm bôi.
- Phương trên, gia ít xác rắn.

26. Lưỡi sưng thành hai và lở loét
- Bồ hoàng, đốt tồn tính, tán, rắc, chỉ 3 lần là lành.

27. Miệng lưỡi lở loét, đau nhức, lâu ngày không lành, lở lan sang mũi
- Trân châu mài với nước cho đặc, lấy lông quạ chấm thuốc phết vào. Lại dùng rễ cà gai, rễ cây vuốt hùm cạo bỏ vỏ, đều bằng nhau, giã nát, lấy lụa bao lại bằng hạt táo, đổ giấm vào ngâm hồi lâu, ngậm ngày 5 - 6 lần.

28. Miệng khô lưỡi co
- 1 quả trứng gà, đập ra, hòa với nước, uống 1 chén.

29. Miệng khát
- Luyện mật ong và viên, uống pha nước sôi là khỏi ngay.

30. Miệng lở
- Lấy muối thường xát vào, lại lấy Tế tân tán nhỏ, rịt vào trên rốn.

31. Miệng lở không bú được
- Mật đà tăng tán, hòa với giấm, rịt vào gan bàn chân, hễ mụn lở khỏi thì rửa đi.

32. Miệng lở loét
- Lưu hoàng, hòa với nước đổ vào gan bàn tay, bàn chân, thấy có công hiệu rồi thì rửa đi.

33. Tưa trắng khắp miệng với loét
- Khô phàn 1 đc, Châu sa 2 phân, tán, mỗi lần lấy 1 ít xát vào, ngày 3 lần.
- Hồng Thược dược, Cam thảo, sắc lấy nước nóng ngậm.
- Bạch cập tán, hòa với sữa, bôi vào gan bàn chân.

34. Thuốc làm thơm miệng, khỏi hôi
- Mật đà tăng 1 đc, mài với giấm súc miệng.
- Thảo đậu khấu, Tế tân, Ích mẫu, Cam thảo nghiền bột, ngậm dần.
- Hoắc hương, Hương nhu nấu nước ngậm, gia thêm Ô mai phơi khô, trộn đều mà ngậm.

35. Miệng hôi
- Phèn chua, Xạ hương tán bột, xát trên răng.

36. Răng sún, miệng hôi
- Nấu nước Xuyên khung để ngậm.
- Bạch chỉ, Xuyên khung đều nhau, sau khi ăn trộn với mật mà uống.

37. Môi khô, nứt, đau
- Đào nhân giã ra trộn với mỡ lợn mà bôi.

38. Môi khô lở
- Thanh bì đốt ra, nghiền nhỏ, hòa mỡ lợn bôi.
- Quả trám sao lên, nghiền bột, hòa mỡ lợn bôi.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.