Chuyển đến nội dung chính

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA ĐAU RĂNG

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA ĐAU RĂNG

ĐAU RĂNG
34 Bài thuốc

Răng là chất thừa của xương, là dấu hiệu bên ngoài của thân. Răng thuộc thận thủy, lợi thuộc vị thổ, hễ thận thủy khỏe mạnh vị thổ bình hòa thời răng sẽ bền chắc vững vàng, thận hư vị nhiệt thời răng lung lay nhức nhối, nặng thời chảy máu sưng mủ. Đại để răng ví như cây, lợi ví như đất, đất dày thì rễ cây bền chặt, đất nông thì gốc cây héo. Răng là xương, xương thì không thể đau, chỉ lợi mới đau thôi.

1. Đau răng lung lay của người già
- Ngũ vị tử 50g
- Muối ăn 20g
Sắc đặc ngậm.

2. Đau răng của người trẻ
- Mủ duối 30ml (ngậm)
- Rượu 45° 30ml (ngậm)

3. Nhức răng
- Xương rồng cắt mỏng nấu sôi
Đau răng ngậm khỏi hết rồi một khi.
- Bạch phàn, Ngũ bội tức thì
Hoài sơn sắc với phèn phi bôi thường
- Có phương Hùng hoàng, Can khương
Tán cho thật nhuyễn xát thường chỗ đau.

4. Răng sâu
- Bồ kết (bỏ hột, nướng giòn) 10g
- Cây xương rồng (bỏ gai, nướng giòn) 5g
- Rễ rau dền gai (nướng giòn) 10g
Sau khi đã súc miệng bằng nước muối thật mặn, dùng tăm chấm thuốc xỉa răng.

5. Răng sâu
- Hoa hồi 1 cái
- Long não 1g
- Nụ Đinh hương 5 cái
- Cà đỏ (mọc hoang trái nhỏ) 2 trái
Vỏ Thanh đại nam (cạo vỏ xanh) 1 thanh, bằng con bài tam cúc.

6. Răng lung lay
- Lung lay muốn rụng không sao
Tật lê, Sinh địa lẽ nào chẳng cân
Hương phụ, Mộc thạch cũng cần
Phá cố tán mạt mấy lần đem thoa.
- Lại có Thạch cao phi qua
Thạch phàn, Bạch chỉ cùng là Tế tân.

7. Răng ra máu
- Máu răng có chảy không cần
Lá ổi với muối nhiều lần ngậm tiêu.

8. Ung xỉ cối
- Ủng xỉ sưng răng nhức nhiều
Bông gòn nhựa nhứt một liều nhét sâu
- Thiềm tô răng mủ không đau
Nhét vào răng ấy không lâu khỏi rồi
- Da trâu, phèn trắng phi bôi
Vông đồng lấy vỏ nướng rồi xỉa sâu.

9. Ung xỉ tẩu mã
- Ung xỉ tẩu mã Quế khâu
Da trâu, phèn trắng, bì ngưu đốt liền
Mỡ heo, chanh nước một bên
Gàn tay chùa hẻ cùng liều kể chung
- Tẩu mã thuốc xỉa vô cùng
Tế tân, Bạch chỉ, Xuyên khung, Bạch phàn
Qui, phèn hắc lại tân toan
Ngũ bội, Thạch lựu can tâm sao cô
Kiến cánh, Binh lang tán vô
Còn thêm chuột nhắt tán tro gia vào
Hợp cùng các vị chẳng sao
Miễn cho hết bệnh người nào cũng vui.
- Một phương Thạch tín chưa dùng
Thạch tín đốt cháy, phi chung Thanh phàn.
- Mái gầm, Long não cũng ham
Rắn thì đốt cháy, phèn làm phi bôi.

10. Chữa răng sâu
- Bồ kết gội đầu 1 - 2 quả khô
- Rễ rau má 20 - 30g
- Rễ cây cỏ xước 20 - 30g
- Rượu 35°- 40° 50ml
Ba loại trên đốt cháy thành than (đốt thành than đen, không đốt quá trở thành tàn tro trắng) rồi ngâm than đó vào trong rượu. Sau 24 giờ thấy than phai ra thành nước có màu nước chè là được.
* Cách dùng: Ngày súc miệng 1 lần khoảng 5 - 10 phút, ngậm lưu trong miệng 5 - 10 phút. Sau khi nhổ bỏ nước ra, nếu răng sâu có lỗ hà thì lấy ít bã than nhét vào lỗ hà đó. Nên đánh răng sạch sẽ rồi hãy ngậm thuốc. Trong khi ngậm thuốc, bệnh nhân thấy tê toàn bộ chân răng và nóng trong miệng, nhưng không bao giờ rộp phồng niêm mạc miệng. Thường chỉ làm như thế 3 - 4 lần là khỏi, răng hết đau, hết sưng, các chân răng chặt chẽ trở lại, kể cả các răng đã hà cụt chỉ còn chân răng cũng không đau.
Chúng tôi theo dõi hầu hết các trường hợp chữa bằng cách này đều có kết quả tốt, ít tái phát trong mấy năm. Có một vài trường hợp tái phát, chỉ cần áp dụng lại công thức trên 1 - 2 lân ngậm thuốc là trở lại bình thường.

11. Thuốc sâu răng
- Tất bát (rễ lá lốt) 1 lạng
- Bắc Tế tân 1 lạng
- Hồ tiêu 2 đc

12. Đau răng
- Vỏ cây nhãn đốt thành than ngâm rượu. Ngậm 1 lần khỏi.

13. Bài thuốc chữa đau răng, sưng và chảy máu lợi răng
- Rượu trắng - Muối ăn - Gừng - Thuốc lá (lấy từ điếu thuốc)
- Hoa bưởi (cắt bỏ cuống và nhụy vàng)
Giã nhỏ (gừng và hoa bưởi) lấy khối lượng 5 thứ bằng nhau cho vào lọ thủy tinh ngâm ngập rượu.

14. Đau răng
- Bồ kết tán nhỏ, tiêu tán nhỏ, ngâm rượu sền sệt, xức răng: nghe ê và mau hết.

15. Các chứng đau răng, loại răng đụng đến là chảy máu
Củ gấu, lá ngải cứu, sắc lấy nước, súc miệng, lại dùng củ cỏ gấu tán xát vào cho ra nước dãi cũng hay.

16. Đau răng
- Mộc nhĩ, Kinh giới, đều nhau, sắc lấy nước thường súc miệng.

17. Đau răng
- Hột củ cải 14 hạt, nghiền sống, hòa với sữa người, nhỏ vào lỗ mũi, đau răng bên trái thì nhỏ vào mũi bên phải, đau bên phải thì nhỏ bên trái.

18. Thuốc nhét vào lỗ tai trị đau răng
- Lá rau má giã nát như bùn, đem tô vào lỗ tai, đau răng bên trái thì tô vào bên phải, đau răng bên phải thì tô vào bên trái.
- Phương trên, thêm Xuyên tiêu, trọng lượng bằng tổ ong, tán, 1 lần uống 2 - 3 đc với nước giếng sắc với hành tăm.
- Cành hòe, hơ nóng đem dí vào chỗ đau, nguội lại thay.
- Vỏ trắng cây hòe, 1 nắm thái nhỏ, sắc với nước và giấm, lọc bỏ bã, thêm ít muối, ngậm súc miệng.
- Cỏ nụ áo, cả hoa và lá, thêm ít muối, giã nhỏ, đặt vào chỗ đau rồi dùng lá quít hôi hoặc lá thông sắc nước ngậm súc miệng.
- Bồ kết 1 quả bỏ hạt, dồn vào đầy muối và phèn chua, đất sét bọc ngoài đốt, tán, dùng xát vào răng mỗi ngày.
- Cành liễu 1 nắm cắt nhỏ, thêm ít muối, sắc nước đặc ngậm súc miệng.

19. Răng đau có sâu vì phong
- Đào nhân, xâu vào cái dùi, kê trên ngọn đèn đốt cho cháy rồi thổi tắt lửa, áp vào chỗ răng đau 5 - 6 lần là khỏi.
- Quả vải để cả vỏ, đốt tồn tính, tán xát vào là khỏi ngay.
- Quả vải bổ đôi, nhét muối vào giữa đốt tán xát vào.
- Quả trám đốt tán, hòa ít Xạ hương bôi.
- Cắt lấy 1 cành nhỏ cây Trắc bá, hơ lửa nóng, dí vào chỗ đau.
- Nhựa thông lấy nhựa còn dính trên cây hòa vào ít nước sôi cho tan, súc miệng lúc còn nóng.
- Lá thông 1 nắm, muối 1 cáp, rượu 2 thăng, sắc còn 1/2 ngậm súc miệng.
- Tổ ong 1 miếng, dồn muối vào các lỗ, đốt, tán xát vào rồi nấu nước muối súc miệng.

20. Răng hễ đụng đến là đau
- Tật lê, hạt hoặc rễ tán, xát răng hàng ngày răng sẽ bền chắc.

21. Răng lung lay hoặc đụng vào thì muốn rụng, các thuốc chữa không khỏi
- Giun khoan cổ, Ngũ bội tử 2 thứ bằng nhau, sao khô tán trước lấy gừng giã nát xát vào răng, sau mới xức thuốc tán vào đừng để cho răng ngớt thuốc thì răng lại bên chắc như cũ.

22. Răng sưng đau
- Quả Ké đầu ngựa 5 cáp, nước 1 bát thêm ít muối, sắc lấy 1/2 thuốc đang nóng, chỉ 1 thang là lành. Không có quả ké thì dùng lá cành cũng được.
- Thanh hao 1 nắm, sắc đặc súc miệng.
- Rau sam giã lấy nước ngậm.
- Rễ cỏ xước sắc nước ngậm súc hoặc đốt ra tro, tán xát răng.
- Vừng đen 1 thăng, nước 1 thăng, sắc còn 1/2 ngậm súc rồi nhổ, chỉ 2 thang là lành.

23. Lợi răng sưng lên vì nhiệt độc
- Rêu mái nhà, không có thì rêu tường sắc đặc với tí muối, ngậm.
- Dây mướp, phơi râm, đốt tồn tính, tán, xát

24. Thuốc chắc răng
- Quả khế, giã nát lấy nước 1 bát, lấy thanh sắt nung đỏ tôi vào nước khế, dùng nước ấy ngậm, 2-3 ngày làm 1 lần, 1 tháng răng sẽ bền chặt như cũ.

25. Cam răng thối miệng
- Ngũ bội tử 1 lạng sao cháy, phèn phi, gỉ xanh đồng đều 1 lạng tán, trước súc miệng bằng nước vo gạo cho sạch rồi xát thuốc.
- Rau cải đốt ra tro, nghiền, thường bôi vào.

26. Phương thuốc gia truyền cho bền chặt răng
- Phèn chua, sáp ong, cà, đại hồi, muối 1 chút, sắc lấy nước ngậm là khỏi.

27. Sâu răng nhức răng
- Diêm sinh 1 lạng
- Đại hoàng 5 đc
- Đỗ trọng Bắc 5 đc
Diêm phàn để sống, Đại hoàng tẩm rượu sao qua phơi khô, Đỗ trọng tẩm muối sao đứt tơ. Các vị hợp lại tán nhỏ, cho vào lọ nút kín để dùng, công dụng chuyên trị chứng sâu răng nhức răng, sưng lợi răng, long răng.
* Cách dùng:
- Khi răng bị sâu hay đau, lấy nước đun sôi để nguội súc miệng rồi kỳ xỉa cho sạch, chấm cho khô chân răng. Lấy thuốc rửa tay cho sạch, chấm thuốc vào ngón tay xát vào chân răng xong ngậm miệng lại, nếu thuốc chảy ra miệng thì nuốt đi, bệnh nặng chỉ xát 3 - 4 lần, sau không bị bệnh về răng nữa.

28. Thuốc đau răng con chim
- Menthol 3g
- Quy vĩ 10g
- Thăng ma 6g
- Thương truật 10g
- Bạch chỉ 6g
- Phòng phong 10g
- Long não 125g
- Hoàng bá 10g
- Bạch phàn 6g
- Tế tân 10g
- Định hương 6g
- Xuyên khung 12g
- Tạo giác 4g
- Đại hồi 20g
- Huyết giác 3g
- Quế chi 20g
- Cồn 90 độ vừa đủ 1000ml
Chữa đau răng, sưng răng, viêm lợi.
Đánh răng sau khi ăn cơm trưa, tối súc miệng, lau sạch, lấy 1 que tăm sạch quấn ít bông, chấm vào thuốc rồi bôi vào chỗ đau.
Kiêng thịt gà, không cho trẻ ăn đường kẹo trước khi đi ngủ.

29. Nhổ răng bị ra máu
- Đâm lá ổi non với muối hoặc gừng với phèn chua mà ngậm cầm máu.

30. Răng lung lay (không bị sâu)
- Củ cỏ cú sao vàng, sắc cho đặc với muối hột, ngậm mỗi đêm trước khi ngủ.
- Gáo dừa khô, nạo rồi còn sót lại ít cơm dừa, để trên tấm tôn, đốt lửa cho chảy dầu ra, lấy dầu ấy mà trét chân răng.
- Mỗi đêm gần đi ngủ, ngậm muối hột ngậm đến khi cảm thấy mỏi 2 quai hàm thì nhổ bỏ, không súc miệng, để vậy ngủ, rẻ tiền đễ làm, rất công hiệu.

31. Ung xỉ cối
- Đâm rễ dây thuốc cá mà ngậm, xong nhổ bỏ, súc miệng chà răng thật kỹ (nuốt nước dây thuốc cá rất nguy hiểm).

32. Ung xỉ máu (răng bị sâu ăn, đứt chỉ máu, ra máu hoài)
- Đốt 1 trái cà dừa cho ruột còn hơi trắng, hẹ 3 rễ, quết chung 2 thứ cho nhuyễn với tí muối, đặt ngay trên răng bị ra máu.
- Nếu ra máu nhiều, ngậm nước đá.

33. Ủng xỉ tẩu mã (chảy máu, chảy nhớt), bệnh nhân làm rớt thịt nướu, cũng gọi là cam tẩu mã
- Nhi trà (mua thứ thiệt, nướng mới phông lên) nướng xong, tán nhỏ, hòa dầu dừa mà thoa.
- Ớt hiểm 10 trái, để trên tấm thớt, đốt cháy ra than, trộn chung 2 chỉ Thạch cao phi mà thoa kẽ răng.
* Lưu ý: Trước khi thoa thuốc, sửa răng lại cho ngay hàng, vì sau khi thoa thuốc, răng sẽ cứng lại thì không còn sửa được nữa.
- Phèn xanh 2 phần, Phèn trắng 1 phần, 2 vị đem phi chung, tán bột mà thoa.
- Da trăn đốt thành than, chút phèn chua phi, 2 vị tán nhỏ, chà xát chân răng.
- Nang con mực tán nhỏ, hòa dầu dừa mà thoa nướu.

34. Sưng nướu
Đâm 1 nắm cỏ răng cưa với muối mà ngậm.

Trích từ sách: TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN 
của Bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng 
do NXB Tổng Hợp TP Hồ Chí Minh ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.