Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - ACTISÔ

CÂY RAU LÀM THUỐC - ACTISÔ

Actisô - Cynara scolymus L. thuộc họ Cúc Asteraceae hay Compositae. Cây thảo cao khoảng 1m, có lá mọc so le chia thành nhiều thuỳ, mặt trên mầu lục, mặt dưới màu trắng nhạt vì có nhiều lông nhung. Cụm hoa mà nguời ta quen gọi là bông Actisô nằm ở đầu các nhánh của thân, có đường kính 6-15cm, phía ngoài có những lá bắc có đỉnh nhọn, tiếp đó là những hoa bao bởi những lông tơ nằm trên một đế hoa nạc. Màu sắc của cụm hoa khác nhau tùy theo thứ (hiện đã biết đến hàng chục thứ).

Cây Acrisô có nguồn gốc ở vùng Địa trung hải. Người Ai cập đã biết trồng cây này từ lâu, nhưng chính nhờ người Á rập đem vào Tây ban nha trước tiên rồi đến Ý (vào thế kỷ 15) từ đó lan sang Pháp và Anh (vào thế kỷ 16) mới biết dùng nó. Ở nước ta, Actisô được người Pháp đem vào trồng ở những vùng núi cao mát mẻ như Đà lạt, Sapa, Tam đảo, tên gọi của cây này là từ tiếng Pháp Artichant. Hiện nay, Actisô được trồng rộng rãi ở Đà lạt với khối lượng lớn. Một số nơi vùng đồng bằng Bắc bộ (huyện Tứ lộc, tỉnh Hải hưng) và Trung bộ (huyện (Quỳnh lưu, tỉnh Nghệ an) cũng có trồng.

Người ta thường trồng Actisô bằng cây con tách từ cây mẹ, sau khi đã thu hoạch cây mẹ. Nay ta cũng nhập một số hạt giống mới và gieo hạt lấy cây con.

Actisô được sử dụng dưới nhiều dạng, dùng tươi dùng khô, nấu cao, chế dược phẩm v.v... Ở chợ Đà lạt, người ta bán bông Actisô tươi, bông chẻ nhỏ phơi khô, lá khô, thân và rễ phơi khô.

Cây Actisô còn non có thể dùng luộc chín hay nấu canh ăn, nhưng bộ phận thường được sử dụng làm rau ăn là cụm hoa (bông Acrisô) bao gồm đế hoa mang hoa, các lông tơ và các lá bắc (có phần gốc mềm màu trắng) bao xung quanh. Người ta mang về, chẻ nhỏ ra theo chiều dọc thành 6-8 miếng rồi đem hầm xương, hầm với thịt lợn, thịt bò để ăn cả cái và nước.

Người ta đã biết thành phần hoá học của cụm hoa Actisô. Có đến 3 tới 3,15% protein, 0,10 đến 0,30% lipid, 11 đến 15,50% glucid (gồm chủ yếu là inulase, dùng tốt cho người bị bệnh đái đường), 82% nước. Ngoài ra còn có mangan, phophor, sắt, 300 UI vitamin A, 120 gama vitamin B1, 30 gama vitamin B2, 10mg vitamin C. 100 gam Actisô cung cấp khoảng 50-75 calo.

Bông Actisô là loại rau cao cấp, khí nấu chín rất dễ tiêu hoá, tạo ra năng lượng, kích thích giúp ăn ngon miệng, bổ gan, bổ tim, lọc máu, chống độc, lợi tiểu (làm tăng sự bài tiết urê, cholesterol dự thừa và acid uric), giúp sự tiết sữa cho các bà mẹ nuôi con. Do đó mà bông Actisô được chỉ định dùng trong trường hợp suy nhược, lao lực, trong sự sinh trưởng, trong sung huyết và thiểu năng gan, thiểu năng thận, giảm niệu, bệnh sỏi, trong thấp khớp, thống phong, tạng khớp, trong trường hợp bị nhiễm độc và trong sự nhiễm khuẩn đường ruột.

Nước sắc Actisô rất giàu muối khoáng, có thể dùng trong ăn uống. Cũng cần chú ý là các cây Actisô non nấu chín ăn được dùng trong bệnh ỉa chảy mạn tính; rễ cây có tác dụng lợi tiểu được dùng trong trường hợp thấp khớp, thống nhong, thuỷ thũng và cả trường hợp vàng da. Lá Actsô là bộ phận quan trọng của cây được sử dụng làm thuốc dưới dạng bột, nấu cao, chiết hoạt chất. Ở nước ta cũng đã sản xuất nhiều mặt hàng dược phẩm như cao Actisô, trà Actisô, Cynaraphytol viên, thuốc giọt Cynaraphytol, thuốc nước đóng ống Actisamin.. có nhiều công dụng về mặt tuần hoàn và máu, gan và thận.

Actsô đã được xem là cây thuốc tất quý đối với các rối loạn có nguồn gốc gan (vàng đa, sỏi mật, nhiễm độc ruột..), trong các rối loạn mà sự thải nước tiểu khó khăn (các bệnh nhiễm trùng, nhiễm độc), trong các bệnh có nguồn gốc gan, một số bệnh ngoài da và các trạng thái quá thừa. Công dụng của nó đã trở thành kinh điển trong các chứng rối loạn của lứa tuổi 50, tạng khớp, thừa nitơ-huyết.. Bông Actisô là một loại rau vừa bổ, vừa ngon; chất đường trong đó dùng tốt cho những người bị bệnh đái đường. Nhưng cần chú ý là khi dùng, phải rửa sạch bằng nước sạch nhiều lần để sát trùng và khử độc do phun thuốc trừ sâu hoặc do các nguyên nhân khác.


Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: SỔ TAY CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC ĐÔNG Y - ÁC TI SÔ


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.