Bèo sen hay Bèo tây, Bèo Nhật bản, Lục bình - Eichhormia crassipes (Mart) Solms, thuộc họ Bèo sen - Pomtederiacae. (Cây thân thảo, sống nhiều năm, nổi trên mặt nước hoặc bám nơi đất bùn, mang một chùm rễ dài và rậm ở phía dưới. Kích thước của cây thường thay đổi tuỳ theo môi trường sống có nhiều hay ít chất mùn. Lá mọc thành hình hoa thị, có cuống phình lên thành phao nổi, gân lá hình cung. Cụm hoa hình bông hay chuỳ ở ngọt dài 15 cm hay hơn. Hoa không đều, màu xanh nhạt hay tím. Các lá đài và cánh hoa cùng màu hàn liền với nhau ở gốc; cánh hoa trên có một đốm vàng. Quả nang, nhưng ít khi gặp.
Bèo sen gốc ở Brazil, được mang vào làm cảnh ở nước ta từ năm 1905 và đã nhanh chóng lan ra khắp nơi, thường gặp ở những chỗ có nước bị tù hãm hoặc nơi nước ngọt chảy chậm như ao, hồ, đầm, mương máng, ven sông. Ở nước ta, bèo sen sống quanh năm, sinh sản chủ yếu bằng con đường vô tính. Từ nách lá đâm ra những thân bò dài, và mỗi đỉnh thân bò cho một cây mới, về sau tách ra thành một cá thể độc lập.
Ở nước ta, người ta thường dùng bèo sen làm phân xanh bón ruộng, làm chất độn để ủ phân chuồng và đặc biệt là làm thức ăn xanh hoặc nấu chín với cám và bột ngô cho lợn ăn. Bèo sen cũng là nguồn thức ăn tốt cho bò trong mùa khô thiếu cỏ tươi... Cây bèo được vứt bỏ hết phiến lá và rễ băm nhỏ, đem ủ lên men trong 24 giờ với một ít nước muối rồi trộn lẫn với cám cho bò ăn.
Bèo sen cũng có thể dùng làm rau ăn cho người. Người ta rút các đọt non, rửa sạch xắt mỏng dùng nấu canh, chỉ cần cho chín tái, không nên nấu chín nhừ, ăn nất không ngon. Bông hoa ăn cũng ngon có thể dùng ăn sống hoặc nấu canh như các đọt non.
Năm 1979 Viện chăn nuôi đã cho biết thành phần hoá học của thân lá bèo sen tươi như sau (tính theo %): Nước 92,3; Protein 0,8; Lipid 0,3; Cellulose 1,4. Dẫn xuất không protein 5,08 và khoáng toàn phần 1,4 (trong đó calcium 0,15g, phosphot 0,03)...
Bèo sen cũng được dùng làm thuốc. Nó tác dụng chữa sưng tấy hoặc viêm đau, như sưng bắp chuối ở bẹn, tiêm bị áp xe, chín mé, sưng nách, viêm tinh hoàn, viêm khớp ngón tay, viêm hạch bạch huyết v.v... Thường dùng phần phình của cuống lá giã nát, thêm muối (5-8g rnuối trong 100g bèo). Ở miền Nam trước đây, bà con cũng thường dùng để chữa những vết thương trên cơ thể bị nhiễm chất độc hoá học. Gần đây, người ta đã phát hiện thêm các lợi ích khác của Bèo sen như:
- Chống ô nhiễm nguồn nước: Bèo làm sạch nước ở nơi chúng mọc, có khả năng làm giảm bớt ô nhiễm môi trường. Chỉ cần 1/3 ha bèo, mỗi ngày đủ để lọc trong 2,225 tấn nước bị ô nhiễm các chất thải sinh học và các hoá chất. Bèo sen còn loại được các kim loại nặng, độc như thuỷ ngân, chì, kền, bạc, vàng v.v...
Cung cấp năng lượng: Cho Bèo lên men hằng vi khuẩn, 1 kg bèo sẽ cho 0,3m3 khí mêtan. Bã bèo sau khi lên men, có thể dùng làm phân bón.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - BÈO TÂY
Nhận xét
Đăng nhận xét