Cải bắp, Bắp cải hay Sú - Brassca oleracea L. var. capitata L., thuộc họ Cải – Brassicaceae. Cây mọc khỏe có lá rộng, lượn sóng. Thân to và cứng, mang những vết sẹo của những lá đã rụng. Chùm hoa ở ngọn gồm nhiều hoa có 4 lá đài màu lục và 4 cánh hoa màu vàng.
Cải bắp có nguồn gốc từ loài cây cải hoang dại ở các vách đá Đại tây dương. Các quá trình lai, tuyển chọn, xáo trộn di truyền đã làm cho loài cây hoang dại biến đổi thành nhiều thứ: Cải bắp trắng, Cải bắp đỏ, Su hào, Cải hoa (suplơ).
Cải bắp là loại rau ôn đới được nhập vào trồng ở nước ta từ lâu. Những giống Cải bắp chính vụ chỉ cuốn bắp khi nhiệt độ dưới 20ºC. Tuy nhiên, những giống Cải bắp chịu nhiệt (chủ yếu là những giống lai) vẫn vào bắp ở nhiệt độ 25-27ºC.
Cải bắp được trồng ở nhiều nơi thuộc các tỉnh phía Bắc. Ở miền Nam, trước đây, cải bắp là đặc sản của Đà lạt, nhưng ngày nay, nhiều huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh và vùng đồng bằng sông Cửu long đã trồng cải bắp rất nhiều, thu hoạch được một số lượng rau đáng kể.
Những giống cải bắp dùng để xuất khẩu có giá trị đang được trồng phổ biến ở nước ta hầu hết đều là những giống thập từ nước ngoài như giống Boston của Pháp, phẩm chất trung bình, giống K.K.cross, N.S.cross và K.V.cross của Nhật đều là những loại rau ăn ngon.
Người ta đã xác định trong Cải bắp tươi, theo tỷ lệ % có: nước 90; protid 1,8; glucid 5,4; chất xơ 1,6; chất tro 1,2. 100g cải bắp cung cấp cho cơ thể 50 calo. Cải bắp cũng giàu về muối khoáng, nhất là calcium, phosphor. Lượng vitamin C trong cải bắp chỉ thua kém cà chua, còn nhiều gấn 4,5 lần so với cà rốt, 3,6 lần so với khoai tây, hành tây.
Cải bắp thường được dùng làm rau để chế biến các loại thức ăn nhự rau luộc, rau xào với thịt nạc và tôm như các món xào khác, nấu canh thịt; cũng dùng làm nộm, muối dưa ăn xổi như muối dưa cải gia thêm tỏi, rau răm, đường, muối: cải bắp muối xổi ăn giòn, hơi mặn, hơi chua, thơm mùi rau răm, tỏi. Khi có nhiều thì đem muối vào khạp chứa muối và phèn chua, rồi ngâm trong một vài tuần thì Cải bắp sẽ chua và ăn được. Người ta còn nhồi thịt lợn nạc băm nhỏ vào các lá bắp cải để hầm nhừ, hoặc dùng các lá Cải bắp cuốn thịt nạc để vào xửng mà hấp.
Cải bắp đã được sử dụng làm thuốc ở Âu châu từ thời Thượng cổ. Người ta đã gọi nó là “Thầy thuốc của người nghèo”. Ngày nay, người ta đã biết nhiều tác dụng của cải bắp.
Trước hết, nó là loại thuốc trị giun tốt. Dùng đắp ngoài làm thuốc tẩy uế và làm liền sẹo các vết thương, mụn nhọt, các vết thương ác độc, đồng thời là loại thuốc trị sâu bọ tốt (ong, ong vò vẽ, nhện...). Còn dùng làm thuốc dịu đau trong bệnh thấp khớp, thống phong, đau dây thần kinh (lấy các lá Cải bắp rồi dùng bàn là ủi cho mềm, sau đó đắp lên các phần bị đau). Nó làm sạch đường hô hấp bằng cách hoặc dùng đắp (trị viêm họng khản tiếng), hoặc uống trong (ho, viêm sưng phổi). Cải bắp cũng là thuốc chống hoại huyết, trị ly và cung cấp cho cơ thể một yếu tố quan trọng là lưu huỳnh (S). Nước sắc Cải bắp dùng lọc máu. Sau hết, nó là loại thuốc mạnh để chống kích thích thần kinh và chứng mất ngủ. Những người hay lo âu, các thí sinh đi thi, các người bị suy nhược thần kinh, những người mệt mỏi liên miên nên dùng Cải bắp thường xuyên.
Trong thời gian gần đây, người ta đã sử dụng cải bắp để chữa đau dạ dày. Năm 1948, người ta đã phát hiện trong Cải bắp có một chất chống loét gọi là vitamin U, do đó Cải bắp có thể dùng làm thuốc chống loét dạ đày, ruột tá (tá tràng), viêm dạ dày-ruột, đau đường ruột, viêm đại tràng. Vitamin U bị hủy ở nhiệt độ cao, nên người ta phải dùng nước ép Cải bắp tươi. Một kg lá Cải bắp tươi sẽ cho ta từ 500ml tới 700ml nước ép, nếu giã tươi lấy nước nước cốt thì được 350-500ml. Dùng nước ép hoặc nước cốt Cải bắp uống trong ngày với liều 1000ml chia làm 4-5 lần uống (có thể pha thêm đường hay muối, dùng nóng hay lạnh). Điều trị liền trong vòng 2 tháng, thấy có kết quả rõ rệt đối với bệnh nhân có ổ loét chưa sâu lắm.
Tất cả các thứ của loài Cải - Brassica oleracea L., như Cải rổ (var. viridis L.), cải bẹ dúng (uar. sabauda L.), Cải lơ, Súp lơ, Cải hoa (var. botrytis L.)... đều có tác dụng chữa bệnh như Cải bắp.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Nhận xét
Đăng nhận xét