Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI SOONG

CÂY RAU LÀM THUỐC - CẢI SOONG (CẢI XOONG) - Rorippa nasturtium aquaticum L

Cải soong, Cải xoong, từ tiếng Pháp là Cresson (Cresson de fontaine, cresson d’eau), có khi đọc là xà lách xoong - Rorippa nasturtium aquaticum (L.) Hayek ex Mansf. = Nasturtium officinale R. Br., thuộc họ Cải - Brassicaceae. Cây thảo sống nhiều năm, có thân bò dài tới 40cm, phân nhiều nhánh, đâm rễ ở các đốt (cả trong đất lẫn trong nước). Lá mọc so le, kép lông chim, có 3-9 lá chét hình trứng không đều, thuỳ tận cùng thường lớn hơn, mép nguyên hay khía tai bèo, màu lục sẫm. Hoa nhỏ, màu trắng, hợp thành chùm ở đầu các cành. Quả cải hình trụ chứa nhiều hạt màu đỏ.

Cải soong gốc ở Châu Âu được nhập vào trồng trước tiên ở nước ta vào cuối thế kỷ 19 rồi sau đó lan dần ra phía Bắc và các địa phương khác … Người ta đem trồng ở những nơi có dòng nước chảy (từ những rãnh dưới vòi nước tới đất ẩm, ven các suốt, ven bờ giếng khơi).

Cải soong là một loại rau ăn tất tốt, có thể thay thế các loại rau ăn thường ngày. Có thể dùng ăn sống, trộn dầu, giấm cũng có thể dùng nấu canh, hay xào ăn. Người ta đã biết trong Cải soong trồng ở Việt nam có các thành phần tính theo tỷ lệ phần trăm như sau: nước 65,5; protid 1,5; glucid 1,0; cellulose 1,4; khoáng toàn phần 0,6. Các muối khoáng (tính theo mg%): calcium 48,3; phosphor 19,6; sắt 1,1. Còn có mangan, arsen, đồng, kẽm, iod (15-45mg trong 100g), dầu chứa lưu huỳnh (hàm lượng 0,66%), vitamin C (tới 40mg hay hơn trong 100g), A, B, PP, caroten và một dẫn chất chát.

Do vậy, Cải soong là một loại rau tốt cho cơ thể. Trước hết, nó khai vị, bổ, kích thích tiêu hoá (nhờ chất dầu sulfonitơ), cung cấp chất khoáng cho cơ thể chống thiếu máu, chống bệnh hoại huyết, lọc máu, lợi tiểu, giảm đường huyết, trị ho, làm ra mồ hôi, trị giun; trị ung thư (dùng nước chiết cải soong để chích làm ngăn cản các ung thư thực nghiệm), là thuốc giải độc nicotin.

Cải soong cũng là loại thuốc, có thể dùng uống trong hay đắp ngoài. Dùng trong để chữa chứng ăn mất ngon, suy nhược, tạng bạch huyết, bệnh scorbut (hoại huyết), chứng thiếu máu, bệnh lao, ho và các bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da (eczema, ghẻ, hắc lào), sỏi mật và các bệnh về gan, mật, sỏi thận và các bệnh đường tiết niệu (bí tiểu tiện), thấp khớp, ký sinh trùng đường ruột, thuỷ thũng, đái đường, ung thư. Dùng ngoài để đều trị chứng rụng tóc, các bệnh về da đầu, các vết thương, ung nhọt, đau răng. Đây là một cây thuốc có tầm quan trọng hàng đầu.

Cải soong thường được dùng tươi ăn sống như xà lách. Một liều điều trị có thể đem lại sự cân bằng cho cơ thể, trị suy nhược kéo dài .. Ðem giã ra rồi chiết lấy nước cốt uống trị giun, giải độc, làm đẹp nhan sắc, trị bí tiểu tiện hoặc có thể sắc uống làm thuốc lợi tiểu (l nắm Cải soong, 3 củ Hành tây, 2 củ Cải trong 1 lít nước sắc uống 2 ly giữa các bữa ăn)... Dùng ngoài bằng cách xoa dịch Cải soong hoặc làm thuốc xức (trộn 100g dịch Cải soong và 100g rượu 90 độ) bôi rửa bàng ngày (làm sạch da đầu, chống rụng tóc), giã đắp vết thương, ung nhọt, các cụm nhọt, áp xe và các bệnh ngoài da khác. Để trị tàn nhang, dùng 3 phần dịch Cải soong với một phần mật ong trộn đều, dùng vải mềm lau sáng và chiều, rồi để khô và rửa sạch. Lá giã ra làm thuốc đắp trị đau răng, thấp khớp, thống phong và đau cơ. Người nghiện thuốc lá nên ăn nhiều Cải soong. Nước dịch của rau Cải soong dùng súc miệng làm chắc chân răng (khi bị thuốc lá đe doa làm hại chân răng) và làm đỡ hôi miệng.

Cải soong có thành phần phong phú nên được sử dụng để chữa nhiều bệnh do chất dầu có tính kháng khuẩn, ức chế được nhiều vì trùng gây bệnh. Ngoài ra, nó là vị thuốc có tác dụng giải cảm mùa hè, phòng chống cúm. Vào lúc nóng bức, người mệt, hắt hơi, có thể lấy một nắm rau Cải soong, rửa thật sạch, vò hay giã nát, đem lọc nước, pha đường uống. Có thể dùng đến 200-300g.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: THUỐC BỔ, THUỐC BỒI DƯỠNG - Cải Xoong


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.