Dưa bở - Cucumis melo L., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae.
Cây thảo hằng năm có thân mọc bò, phủ lông ngắn; tua cuốn đơn. Lá lớn, hình tim ở gốc, gân hình tròn hoặc hình thận, có 3 góc hay 3-7 thùy thường nhỏ, tròn, tù, có răng; hai mặt lá có lông mềm, trên gân mặt dưới cũng có lông; cuống lá có lông ngắn cứng. Hoa màu vàng, hoa đực xếp thành bó, hoa cái mọc riêng lẻ. Quả đa dạng, hình dáng và màu sắc khác nhau tuỳ theo từng thứ, phần nhiều có vỏ vàng sọc xanh, trơn nhẵn bóng hoặc có lông tơ mềm, khi thật chín thì có vỏ mỏng bóc ra như lớp da trong có thịt màu vàng ngà, gồm chất bột mịn, bở, mềm mùi thơm; ruột quả có nước dịch mầu vàng, vị ngọt mát; màng hạt màu trắng.
Dưa bở được trồng khắp các vùng nhiệt đới và ôn đới. Ở nước ta, nhân dân trồng dưa bở ở các bãi để lấy quả ăn. Có những thứ khác nhau trong đó có Dưa gang - (var, conomon (Thunb.) Mak.) cũng thường được trồng. Dưa bở lúc còn non và Dưa gang đều dùng làm rau ăn sống như Dưa chuột hoặc dùng nấu canh, muối dưa, ngâm giấm; quả dưa bở chín dùng ăn với đường để tráng miệng.
Người ta đã phân tích trong quả Dưa có các thành phần sau (tính theo %): Nước 95; protein 0,60; lipid 0,11; glucid 3,72; cellulose 0,33; tro 0,1; đường 1,05-6 và các vitamin A (25-30000 đơn vị), B (0,03mg), C (1,5-2mg); các chất khoáng (P: 30mg, Ca : 20mg, Fe: 0,4mg). Về giá trị dinh dưỡng tuy không cao, nhưng dùng làm rau ăn thì mát, gây ăn ngon miệng, nhuận tràng, lợi tiểu. Thường được chỉ dẫn dùng khi bệnh lao, ít nước tiểu, thống phong, thấp khớp, mất ngủ, táo bón, trĩ, sỏi niệu đạo và giữ da mặt. Những người bị bệnh đái đường, viêm ruột không nên dùng.
Có thể ăn quả tươi đầu bữa ăn, có thêm muối và hạt tiêu lại làm cho dễ tiêu hoá và bớt nhuận tràng. Dùng ngoài lấy thịt quả già đắp lên các vết bỏng nhẹ. Để làm thuốc rửa mặt do da bị khô, dùng dịch tươi của quả pha với nước cất và dịch lá bạc hà để rửa mặt vào buổi tối...
Lương y Lê Trần Đức đã viết về công dụng của Dưa bở (Điềm qua) như sau: Dưa bở có vị ngọt, tính trơn lạnh có tác dụng giải khát, trừ phiền nhiệt, thông khí, lợi tiểu tiện, phòng trúng nắng về mùa hè.
- Hạt dưa có vị ngọt, tính mát, điều hoà trong bụng, thanh phế, nhuận tràng, trị được các chứng kết tụ sinh máu mủ ở trường vị. Chữa ho khan hay đại tiện táo bón, ăn 10g, ngày 2 lần.
- Cuống dưa có vị đắng, tính lạnh, có độc, gây nôn và thông đại tiện, chữa sốt phát cuồng, sốt rét cơn, dùng 4-8g sắc uống thì mửa ra đờm và khỏi bệnh. Đại tiện bí thì dùng 7 cuống dưa tán nhỏ, bọc bông nhét vào hậu môn thì thông.
- Hoa dùng chữa tim đau và ho nấc, sắc 8g uống.
- Lá có tác dụng làm tan máu ứ, chữa hị thương, sai khớp, gãy xương, dùng 20g tán nhỏ uống với rượu hay sắc uống.
- Tua dưa dùng chữa con gái mất kinh, phối hợp với Sử quần tử và Cam thảo mỗi vị 20g tán nhỏ, uống mỗi lần 8g với rượu.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Nhận xét
Đăng nhận xét