Đậu xanh, Đậu chè hay Đậu tằm - Vigna radiata (L.) Wilczek var. radiata, thuộc họ Đậu - Fabaceae. Cây thảo mọc đứng, cao cỡ 5cm. Lá có 3 lá chét, có lông ở cả hai mặt. Chùm hoa ở nách lá; hoa màu vàng lục. Quả đậu nhiều, hình trụ thẳng, mảnh, có lông, chứa những hạt rất nhỏ hình trụ ngắn, gần hình cầu thường có màu xanh lục.
Đậu xanh có nguồn gốc ở châu Á (vùng Viễn đông), ngày nay được trồng ở nhiều nước nhiệt đới thuộc châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Ở nước ta, đậu xanh được trồng ở hầu khắp các tỉnh đồng bằng, trung du và miền núi thấp. Có nhiều giống trồng khác nhau.
Đậu xanh là một loài cây có giá trị kinh tế cao. Hạt dùng làm thức ăn cho người dùng nấu canh, nấu chè, làm bánh, ủ giá, làm miến, nấu cháo. Hạt đậu xanh thường dùng rang, tán bột (bột đậu xanh) rất thường được dùng trong các loại bột dinh dưỡng. Lá đậu xanh cũng dùng muối chua làm dưa như dưa cải. Thân lá và bột vỏ quả sử dụng cho chăn nuôi.
Năm 1972, Viện vệ sinh dịch tễ đã cho biết thành phần hoá học của hạt một giống Đậu xanh trồng ở Việt nam (tính theo % của hạt): Nước 14,00 ; protein 23,40; lipid 2,40; glucid 53,10; cellulose 4,70; tro 2,40. Có các chất Ca, P, Fe, và các vitamin A, B1, B2, PP và C.
Hàm lượng các acid amin cần thiết trong hạt đậu xanh (tính theo % trong 100g protein): Lixin 4,9, Metionin 1,3; Triptophan 1,3; Phenylalanin 4,9; Treonin 4,0; Valin 4,1; Lơxin 5,5; Izolơxin 4,5; Acginin 6,3; Histidin 1,2; Lượng calo do 100g Đậu xanh cung cấp cho cơ thể là 336 calo.
Đậu xanh cũng là một vị thuốc thường dùng. Hạt Đậu xanh (Lục đậu) có vị ngọt, hơi lạnh, tính mát, vào trường vị, có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, giải độc, trừ phiền nhiệt, bớt đau sưng, ích khí lực, điều hoà ngũ tạng, nấu ăn thì bổ mát và trừ được các bệnh nhiệt. Vỏ hạt đậu xanh (Lục đậu bì, Lục đậu xác) có vị ngọt, tính nóng, không độc, có tác dụng giải nhiệt độc, làm cho mắt khỏi mờ.
Từ xưa, để dự phòng các bệnh ôn nhiệt mùa hè, nhân dân ta dùng đậu xanh, đậu đỏ, đậu đen, ba thứ bằng nhau, cùng nấu với một ít Cam thảo ăn và uống nước trong 7 ngày liền có thể tránh cảm nhiễm. Ngày nay, Đậu xanh được sử dụng nhiều:
- Để giải nhiệt, chữa cảm sốt, dùng bột Đậu xanh 50g (cả vỏ), lá Dâu non 16g, lá Tía tô 12g. Bột đậu xanh cho thêm ít gạo, nấu nhừ; lá Dâu và Tía tô thái nhỏ, bỏ vào, để sôi 5-10 phút, ăn nguội để tránh ra mồ hôi, vì cảm thể nóng đã ra nhiều mồ hôi.
- Chữa các loại ngộ độc, dùng Đậu xanh nghiền sống chế nước vào, hoà đều cho uống thật nhiều để nôn ra sẽ giải độc.
- Chữa bệnh tiêu khát, khát nước uống nhiều, và đái tháo không chừng (đái đường), đùng Đậu xanh nấu cháo ăn hàng ngày, và sắc cây Bông ổi uống thay chè.
- Chữa các trường hợp bụng cồn cào, nhức đầu, nôn ọe, hoặc có thai nôn ọe, thai không yên, dùng Đậu xanh nhai sống nuốt, hoặc nấu cháo đậu xanh ăn với đường.
- Chữa giời leo, ngứa ngáy khó chịu, dùng hạt đậu xanh nhai sống lấy bã đắp.
- Vỏ đậu xanh thường dùng phối hợp với các vị thuốc khác chữa bệnh ôn nhiệt, sốt cao hôn mê có giật, và cho vào gối để tránh bệnh đau đầu vào mùa hè.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Nhận xét
Đăng nhận xét