Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - GỪNG

CÂY RAU LÀM THUỐC - GỪNG - Zingiber officinale

Gừng - Zingiber officinale Rosc., thuộc họ Gừng - Zingibebraceae. Cây thảo có thân rễ nạc và phân nhánh xòe ra như hình bàn tay, gần như trên cùng một mặt phẳng, mang nhiều chồi, từ đó phát ra những thân thực cao 80 đến 100cm. Lá thuôn hình ngọn giáo, dài 20-30cm. Cụm hoa bông ở ngọn dày đặc hoa, có cuống dài 25cm, mọc thẳng lên; hoa vàng xanh mép tím. Quả mọng.

Gừng gốc ở Ấn độ và Malaixia, hiện có mọc ở tất cả các xứ nóng. Ấn độ, Nhật bản, Úc là những nước trồng nhiều gừng để xuất khẩu. Ở nước ta, gừng được trồng khắp mọi nơi, chủ yếu có nhiều ở Hải phòng (Cát bi), Cao bằng, Lạng sơn, Hà giang, Sơn la, Lào cai.

Từ thời đại các vua Hùng (2879-287 trước Công nguyên) tổ tiên ta đã dùng gừng ăn với thịt chim, cá, ba ba cho đỡ lạnh, dễ tiêu. Từ đó đã hình thành tục sử dụng gừng, hành, tỏi, ớt, tía tô... làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày để phòng bệnh. Ngày nay, hầu như gừng không vắng mặt trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân ta trong việc làm gia vị chế thực phẩm (xào thịt bò, thịt trâu, thịt thú rừng, thịt vịt), nấu rau cải, nấu với các loại thực nhẩm mát hoặc tanh như cá, cua, ốc hến, ba ba .. tẩy bóng cá. Còn dùng pha nước chấm, nước mắm cho thơm, nấu với nước luộc bánh trôi, làm mứt. Lá gừng cũng được dùng nấu canh cá đồng.

Trên thế giới, ngoài việc dùng gừng làm gia vị, người ta còn dùng nó làm nguyên liệu chế bánh ướp hương (ginger - beer, gingerale), còn dùng làm mứt kẹo (mứt, xirô, viên kẹo ngậm) và dùng nó làm thành phần của bánh gia vị của các xirô làm dịu. Người ta đã biết trong thân rễ (củ) của Gừng chứa tinh dầu (2-3%), nhựa dầu (5%), dầu mỡ (3,7%), tinh bột, chất cay (Zingeron, zingerol, sogal).

Gừng vừa là gia vị vừa là thuốc chữa bệnh. Y học dân tộc sử dụng Gừng dưới những dạng chế biến khác nhau với tính vị và tác dụng khác nhau:

- Gừng tươi (sinh khương) vị cay, tính hơi ấm, vào phế, tỳ, vị có tác dụng phát tán nhẹ khí, khai khiếu và tiêu trệ, ôn trung, thường dùng làm thuốc giúp tiêu hoá, trạng thái kém ăn, ăn uống không tiêu, cảm lạnh, nôn mửa, ho có đờm, giải độc cá, cua, thịt .. Dùng ngoài, đem Gừng gia nhỏ đắp vào chỗ tụ huyết do sang chấn, đau ngực thâm tím.

- Gừng khô (can khương) là Gừng sống đồ lên và phơi khô, vị cay nóng, có tác dụng tán hàn, dùng trị cảm lạnh, thổ tả.

- Gừng sao thật vàng (tiêu khương) cũng dùng chữa đau bụng lạnh, tay chân lạnh, nhức mỏi, tê bại, tê thấp, đầy hơi.

- Gừng sao gần cháy (thán khương) cũng dùng như Gừng sao và còn trị băng huyết.

Ta thường dùng gừng dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột. Ngâm gừng trong cồn hay trong rượu để chế rượu gừng. Gừng muối dùng ngậm cũng như mứt Gừng, để tránh ho và chống lạnh về mùa đông. Nó lại có tác dụng tăng cường muối cho cơ thể đỡ say nóng và đỡ khát nước trong mùa hè; Gừng muối còn chữa chứng đầy bụng, làm thông đường tiêu hoá, sát trùng trong trường hợp đau răng và sưng amygdal.

Chúng ta có nhiều kinh nghiệm dân gian trong việc dùng Gừng, từ những trường hợp đơn giản như chữa đau bụng, nôn mửa, ọe ... chỉ cần nhai Gừng sống nuốt nước, cho đến các trường hợp phức tạp hơn nữa như tỳ thấp thũng trướng, tay chân phù trong, ăn không tiêu, sợ lạnh, sợ nước, dùng 150g Gừng sống rửa sạch, thái mỏng, rang khô giã đổ vào bát, rưới vào 50ml mật ong, trộn đều đậy kín lại một chốc, rồi bệnh nhân ăn hết trong một ngày, sẽ xọp phù; nếu cần ăn tiếp một hai lần nữa là khỏi (Theo lương y Lê Trần Đức).

Gừng là một loại thuốc có giá trị trong các loại Rau gia vị.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: SỔ TAY CÂY THUỐC VÀ VỊ THUỐC ĐÔNG Y - CAN KHƯƠNG (GỪNG KHÔ)


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.