Hoa thiên lý, Hoa lý hay Thiên lý - Telosma cordata (Burm.f). Merr., thuộc họ Thiên lý - Asclepiadaceae. Dây leo có thân cành non hơi có lông, có nhựa mủ trắng. Lá hình tim, đầu nhọn, mép lá thường cong lên.
Hoa khá to, nhiều, màu vàng lục nhạt, mùi thơm dễ chịu, mọc thành xim dạng tán ở nách lá, có cuống to, hơi có lông, mang nhiều tán rất sít nhau. Quả thuộc loại quả đại.
Cây thiên lý được trồng ở các nước Đông dương, Inđônêxia, Malaixia, Thái lan, Trung quốc. Âu châu, người ta đã trồng cây Thiên lý từ năm 1748 để làm cây cảnh và lấy hoa. Tại nước ta, Thiên lý cũng được trồng nhiều trong các vườn gia đình vùng đồng bằng cho leo giàn để lấy bóng mát vào mùa hè, hoa thơm mát dịu, hương ngát về đêm (nên còn có tên là Dạ lan hương).
Ta thường dùng hoa, lá nấu canh với thịt ăn như loại rau cho bổ mát. Trong những ngày hè nóng nực, một bát canh chua hoa thiên lý là phương thuốc giải nhiệt có giá trị. Ăn canh hoa thiên lý, người ta có cảm giác khoan khoái, dễ ngủ và ngủ ngon giấc, bớt đi đái đêm và đỡ mệt mỏi đau lưng. Có thể xem hoa thiên lý nhự một vị thuốc an thần. Còn có tác dụng trị giun kim. Rễ nạc của cây thiên lý dùng để chế mứt.
Hoa thiên lý có vị ngọt dịu, tính bình, có tính chất chống việm, làm tan màng mộng, xúc tiến lên da non, thường được chỉ định dùng chữa viêm kết mạc cấp và mạn tính, viêm giác mạc, mờ đục màng mắt, viêm kết mạc do bệnh sởi. Liều dùng 3-5g dạng thuốc sắc. Cũng có thể dùng lá hoặc quả thay cho hoa.
Lá thường được dùng ngoài, giã đắp lên định nhọt và vết loét. Để trị lòi dom và bệnh sa dạ con, người ta giã 30-50g lá Thiên lý với 5% muối, vắt lấy nước cốt tẩm bông đắp vào hậu môn hay âm hộ (sau khí đã rửa sạch chỗ đau bằng nước muối), mỗi ngày thay một lần, sau 3-4 ngày đã thấy có kết quả.
Rễ nạc của Thiên lý, ngoài việc dùng để chế mứt, có thể dùng làm thuốc chữa đái buốt có máu hoặc có cặn trắng, mỗi lần dùng 10-20g dưới dạng thuốc sắc.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Thiên Lý
Nhận xét
Đăng nhận xét