Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - MĂNG TÂY

CÂY RAU LÀM THUỐC - MĂNG TÂY - Asparagus officinalis

Trong các loại rau, thì Măng tây được coi là loại rau cao cấp quý. Bộ phận dùng làm rau ăn là các mầm non nằm trong đất, hình dáng giống như cây Măng trúc, Măng sặt ăn rất ngon.

Cây Măng tây - Asparagus officinalis L., thuộc họ Thiên môn đông - Asparagacae. Cây thảo có những rễ và thân mọc ngầm trong đất mà thường được gọi là thân rễ, với những thân đứng mọc trong không khí lởm chởm những vết sẹo của những nhánh đã rụng.

Hoa rất nhỏ, màu lục nhạt, tập hợp 1-4 cái thành khóm ở nách lá. Quả mọng, hình cầu, màu đỏ.

Vào mùa xuân, có những nhánh non mọc lên từ các thân rễ mà ta gọi là măng.

Người Ai cập đã biết trồng cây Măng tây, nhưng chính người Hy lạp đã đem nó vào trồng ở miền nam nước Ý và Pháp. Ở nước ta, Măng tây được nhập trồng nhưng diện tích gieo trồng hiện nay rất ít ỏi, chỉ tập trung ở vài cơ sở thuộc ngoại thành Hà nội. Hàng năm, Măng tây được thu hoạch từ tháng 3 trở đi sau khi đã trồng được một năm, và thu liên tiếp cho đến tận cuối tháng 9, Nếu chăm bón tốt, có thể thu được trong 5-6 năm liền rỗi mới phải trồng lại. Năng suất mỗi hécta ở cây trồng 2 năm đẫu và năm cuối khoảng 6,5-7,5 tấn/ha, năng suất cao nhất đạt tới 9-10 tấn/ha ở các năm thứ 3 và thứ 4. Người ta thu hoạch măng vào lúc mặt trời chưa mọc thì măng mới trắng và ngon.

Hiện có vài nơi ở Đà Lạt, người ta thử trồng Măng tây nhưng không kết quả bao nhiêu. Trồng măng tây phải đầu tư công làm đất, phải trộn tro và cát vào đất để đất dược xốp giúp cho măng dễ đâm chồi. Muốn cho chồi măng được cao và mập thì khi chồi măng vừa ló lên mặt đất, người ta úp một ống tre cưa hết mắt ở hai đầu để chồi măng sẽ trắng, mập và dài.

Măng tây là loại rau ngon nhựng mức độ sử dụng không phổ biến bằng các loại rau khác vì đắt, không phải vì không có mà chính vì kỹ thuật sản xuất tương đối cầu kỳ.

Người ta đã biết trong 100g phần ăn được của Măng tây có 93,7 nước; 2,2g protit; 1,2g glucid; 2,3g chất xơ và một số chất khoáng khác như calciumn, phosphor ... Không thấy có vitamin. Trong măng tây có một lượng đáng kể hợp chất có nitơ là asparagin rất cần cho sự xây dựng, sự phân và sự hồi phục có thể xẩy ra của các tế bào trong cơ thể.

Măng tây cũng được sử dụng làm thuốc như phần thân rễ của cây nhưng tác dụng hơi kém hơn. Nó là loại thuốc lợi tiểu, khi người ta ăn măng tây thì nước tiểu có mùi đặc biệt. Do đó nó được chỉ định dùng cho những người yếu thận (trừ trường hợp viêm đường tiết niệu), cho những người đau bàng quang, đau gan, đau tim, và cho cả những người bị bệnh thống phong. Nó đặc biệt có hiệu quả đối với bệnh suy gan mật; nó làm dịu cơn đau đánh trống ngực. Măng tây cũng có ích cho người lao động trí óc có sức làm việc dẻo dai hơn.

Có thể dùng dưới dạng làm rau ăn, có thể ăn nhiều theo ý muốn, hoặc dùng dưới dạng thuốc hãm hay thuốc sắc uống hàng ngày.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.