Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÔN

CÂY RAU LÀM THUỐC - MÔN - Colocasia esculenta

Môn - Colocasia esculenta (L) Schott, thuộc họ Ráy - Araceae. Có nhiều giống trồng nên có nhiều tên gọi: Môn nước, Khoai nước, Khoai ngứa, Khoai môn, Khoai sọ nước, Khoai cao, Môn là loại cây thảo có thân rễ to lớn, tận cùng là một chồi khỏe hình nón. Lá to, hơi ngả và thõng xuống rõ rệt khi đã trưởng thành; phiến lá hình trái xoan dạng tim, hình khiên, lượn sóng, màu lục, có vân lục sẫm, màu tím hay màu nâu tuỳ theo giống trồng, dài 60cm tới 100cm, rộng 30-60cm, có cuống lá khỏe, cong hình cung mà phần gốc phình rộng thành máng, dài 80cm tới 100cm.

Môn thường dược trồng ở phần lớn các xứ nhiệt đới để lấy thân rễ có bột phình thành củ; củ có thể nặng từ 500g cho tới hàng chục kg, dùng luộc ăn, nấu độn cơm, nấu canh với thịt cá, nấu xôi, nấu chè, làm tương, nấu rượu, phơi khô giã bột để làm các loại bánh. Búp non đem kho với cá, dọc (cong) lá nấu canh hoặc muối dưa cũng ngon.

Có người còn phân biệt Môn ngọt với Môn nước (hay Môn ngứa) là những thứ gần nhau về hình thái ngoài. Môn ngọt là loại rau mọc dại nơi ẩm thấp chỗ các mương, bờ rạch và cũng thường được trồng. Môn ngọt khác Môn nước là có cái chấm đỏ ở cuống lá (có thể là giống khoai chấm son mà theo mô tả của một số tác giả thì lá dài tới 80cm-120cm, phiến lá rộng; ở giữa phiến lá có màu vàng chấm son). Người ta thường dùng môn ngọt chế biến thành các loại thức ăn như nấu cháo lươn, xào tép, phơi hơi héo để muối dưa.

Cũng có người ghép loài Môn vào cùng loài với Khoai môn, Khoai sáp (Colocasia antiquorum Schott), có người ghép làm một và gọi tên chung là Khoai sáp, Khoai môn, Khoai ao. Loài này có khi được xem như là một thứ của loài trên (Colocasia esculenta (L.) Schott var. antiquorum (Shott) Hubb.) với tên Khoai sọ hay Khoai môn, trong khi có tác giả lại gọi Khoai sọ hay Ráy với tên Alocasia macrorrhiza Schott.

Nói chung, người ta thường tách ra hai loài. Ngoài Môn hay Khoai nước, còn có cây Khoai sáp thường trồng mà trên thế giới, người ta cho rằng củ của nó không ngon bằng loài trên.

Khoai sáp, Khoai môn hay Khoai cao là loài cây thường trồng có củ to, tròn có thể cân nặng từ 0,5-5kg, chứa chất thịt màu trắng, tím hay đen đen; lá rộng, ngả xuống, hình trái xoan dạng tim, hình khiên, lượn sóng, dài 60-70cm, rộng 50cm, màu lục, có vân lục xanh lơ; cuống lá to, hình cung có rãnh dài ở gốc. Là cây của châu Á nhiệt đới được trồng nhiều và có nhiều giống trồng (có tới 20 giống trồng ở Tân Calêđôni, 13 giống trồng ở Tahiti). Ở nước ta cũng có nhiều giống trồng khác nhau.

Lá non của môn cũng dùng ăn được như môn ngọt, dọc mùng, dùng nấu giấm cá, ốc, thịt; củ của chúng cũng dùng nấu để ăn như các loại khoai khác.

Gần gũi với cây Môn là cây Bạc hà, mà để tránh nhằm lẫn, chúng tôi gọi là Môn bạc hà - Alocasia odora C. Koch, thuộc họ Ráy - Araceae.

Môn bạc hà là loại cây thảo cao 0,5-1m, củ rộng 2-5cm, cao 5-10cm. Lá màu xanh tươi, phần ôm thân dài bằng phần cuống (30cm) có phiến trăng trắng; phiến lá hình lọng, nơi đính của cuống cách mép 3-10cm, tai tròn, gân phụ 4-5 cặp.

Môn bạc hà là loại rau dễ trồng. Gặp điều kiện đất phân thuận lợi, nó sính sôi nẩy nở rất nhanh. Ta chỉ cần tỉa bớt những bẹ lá lớn ăn trước, còn những bẹ lá non sẽ lớn lên, các cây con cũng mọc lên nhanh chóng, cung cấp món rau ăn thường xuyên. Môn bạc hà được sử dụng nhiều nhất trong việc nấu canh chua với cá, với tép hoặc lươn. Khi dùng, phải tước bỏ vỏ ngoài, rồi xắt ra thành từng miếng mỏng, xeo xéo. Nấu cá, tép hoặc lươn trước như nấu canh chua bình thường cho đến chín mới bỏ Bạc hà và các thứ rau phụ khác vào nồi canh. Môn bạc hà có thể để tươi hoặc bóp trước với nước muối măn mắn cũng được. Không nên để rau chín quá, khi thấy nó vừa xẹp xuống là được. Nêm nồi canh với bột ngọt, nước mắm, mỡ đã phi hành tỏi cho thơm, rau thơm các loại như ngò gai, rau om; húng quế và ít lát ớt. Cũng có thể dùng ăn sống bằng cách tước bỏ vỏ, thái lát mỏng, bóp kỹ với muối để ráo nước, đem chấm nước cá kho, thịt kho.

Theo lương y Nguyễn Trung Hoà, củ Môn bạc hà mài ra đổ cho người bị kinh phong sôi đờm, nhất là ở trẻ em, sẽ làm xuống đờm.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.