Rau dớn - Diplazium esculentum (Retz.) Sw. = Callipteris esculenta (Retz.) J. Sm., thuộc họ Rau dớn - Athyriaceae. Dương xỉ có thân rễ nghiêng, hướng lên, cao tới 15m thường bao phủ vẩy ngắn màu hung. Cuống lá dài 60-100cm, dày, màu vàng lợt hoặc nâu đen và phủ vẩy ở gốc; phiến lá thay đổi tuỳ theo tuổi của cây, nhưng có thể dài tới 15m; các lá lược non kép lông chim một lần, các lá lược già kép lông chim hai lần; các lá chét bậc nhất ở dưới và ở trên đều chia thuỳ lông chim dài khoảng 8-10cm, rộng 2cm; các lá chét ở giữa lớn hơn, có cuống, chóp hình tam giác; các lá chét bậc hai gồm 8-10 cái mỗi bên, không cuống, thuôn hình ngọn giáo; gân liên kết hình lông chim với 6-10 gân con ở mỗi bên trong các thuỳ. Ổ túi bào tử dài, mỏng, nằm trên các gân con. Bào tử hình thận.
Rau dớn gốc ở Ấn độ, phân rộng khắp cả châu Á và quần đảo Polynêdi nhiệt đới. Ở nước ta, Rau dớn mọc phổ biến nơi ẩm ướt ở bình nguyên, ở chân đồi núi, các trảng và ven rừng ẩm ở nhiều nơi. Cây rất đa dạng.
Ở các nước có Rau dớn mọc, cũng như ở các nước Đông dương, người ta đều biết sử dụng loài cây này làm rau ăn. Các lá non dùng ăn như Măng tây, luộc ăn chấm nước mắm, nấu canh thịt, hoặc dùng ăn sống. Rau dớn không có giá trị dinh dưỡng cao. Ở Ấn độ, người ta đã phân tích thành phần hoá học của Rau dớn: nó chứa 86% nước; 4% các chất albumin và 8% hydrat carbon gồm chủ yếu là cellulose.
Ở nước ta, chưa có tài liệu nói về việc sử dụng Rau dớn làm thuốc còn ở Malaixia, người ta thường sắc nước cho phụ nữ sau khi sinh đẻ uống.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Nhận xét
Đăng nhận xét