Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU SẮNG

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU SẮNG - Melientha suavis

Rau sắng, Rau ngót núi hay Ngót rừng - Melientha suavis Pierre, thuộc họ Rau sắng - Opliaceae. Cây gỗ cao 4-8m, nhẵn, đường kính thân 25-30cm; các cành mảnh ở ngọn cây, vỏ màu lục, khi già có màu trắng và hoá bần. Lá hình ngọn giáo, thu hẹp tù lại cả hai đầu, rất nhẵn, dày, đài 7-l2cm, rộng 30-60mm, gân phụ 4-5 đôi, mảnh, gân con không rõ; cuống lá dài 1-2mm, nếu kể cả gốc của phiến thì dài 4-5mm. Cụm hoa ở bên, nằm ở nách của một lá đã rụng, thành chuy phân nhánh và mảnh, gồm những cuống dài 13cm, các nhánh đạt tới 4cm, mang những hoa đa tính, cao 2mm, rất thơm. Quả gần nạc, thuôn hay hình trứng, dài 25mm, rộng l7,5mm có hạch cứng chứa một hạt, có nội nhũ mầu vàng da cam.

Rau sắng phân bố ở các nước Đông dương. Ở nước ta, cây mọc phổ biến ở rừng ven suối, ven núi đá ở nhiều tỉnh phía Bắc (Quảng ninh, Lạng sơn, Thái nguyên, Phú thọ, Hoà bình, Sơn la, Lai châu…) còn miền Nam, có gặp ở rừng núi Đinh (tỉnh Đồng nai).

Người ta thường lấy lá non, lá bánh tẻ, hoa, quả non xào hay nấu canh ăn rất thơm ngon. Hạt cũng ăn được, có vị béo ngọt.

Về giá trị của cây Rau sắng. Bác sĩ Thanh Tịnh đã viết như sau: “Rau sắng là một loại rau quý của nước ta. Rau sắng nấu canh với thịt ăn rất ngon nhưng nếu không có thịt, ta nấu canh suông Rau sắng, bát canh vẫn ngon ngọt, đậm đà, hơn hẳn các loại canh suông khác”.

Rau sắng không những ngon mà còn có nhiều loại chất bổ, có thể nói là có nhiều giá trị dinh dưỡng nhất trong các loại rau ở nước ta. Ngoài việc cung cấp cho cơ thể nhiều loại Vitamin và muối khoáng - một ưu điểm chung của rau tươi và quả chín - Rau sắng còn có một lượng protid và gliucid đáng kể. Tỷ lệ protid trong Rau sắng cao gấp đôi rau muống và hơn cả các loại đậu cô ve, đậu đũa, đậu ván... là những thức ăn thực vật thuộc họ Đậu từ xưa vẫn nổi tiếng là giàu protid (Trong 100g Rau sắng có 6,5g protid, trong 100g Rau muống chỉ có 3,2g. Đậu cô ve có 5g, Đậu đũa 6g, Đậu ván 2,8g). Còn so với các loại rau mà nhân dân ta vẫn ăn hằng ngày như Rau cải, Su hào, Xúp lơ, Xà lách, Rau cần, Rau diếp v.v... thì giá trị dinh dưỡng của Rau sắng vượt khá xa.

Qua phân tích của Viện vệ sinh dịch tễ và Viện nghiên cứu kỹ thuật ăn uống về thành phần hoá học của Rau sắng Chùa Hương (huyện Mỹ đức, tỉnh Hà tây), người ta thấy: trong 100g Rau sắng có 82,4g nước; 6,5g protid; 5,5g glucid; 2,2g cellulose; nó cung cấp cho cơ thể được 49 calo.

Chất protid trong Rau sắng lại thuộc loại quý, gồm nhiều acid amin cần thiết cho cơ thể con người, không thể tự tổng hơp được nhự Lysin, Metionin, Triptophan, Phenylanin, Treonin, Valin, Leucin, Isoleucin… Nhìn qua thành phần hoá học trên, ta cũng thấy đây là một thức ăn thực vật ngon và bổ, vượt xa các loại rau xanh khác cả về lượng protid và glucid (Báo Sức khỏe số 7-415 ngày 5-4-1986).

Về giá trị làm thuốc, ít thấy có tài liệu nghiên cứu. Người ta mới chỉ biết là rễ cây được sử dụng chữa sán (Theo Lê Kim Biên, Tập san Sinh vật Địa học số 11-1973).

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.