Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - SẮN

CÂY RAU LÀM THUỐC - SẮN - Manihot esculenta

Sắn hay Khoai mỳ, Củ mỳ, Sắn tàu - Manihot esculenta Crantz, thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae. Cây thân bụi sống lâu năm, cao trung bình 1,30m, có khi tới 3m. Thân tròn mọc thẳng, phân 2-3 cảnh ở ngọn. Rễ phình to thành củ nạc chứa nhiều chất bột. Lá xẻ thuỳ chân vịt gồm 5-9 thuỳ, các thuỳ này hình ngọn giáo, có màu sắc thay đổi tuỳ giống. Hoa đơn tính, mọc thành chùm. Quả hình cầu, lúc chín tách ra thành 6 mảnh.

Cây Sắn gốc ở Brazil, ngày nay được trồng rộng rãi ở các nước nhiệt đới châu Phi và châu Á. Các nước Đông nam Á cũng trồng rất nhiều. Ở nước ta, Sắn cũng được trồng phổ biến, nhất là ở các tỉnh vùng trung du Bắc bộ, Quảng ngãi và Bình định. Do trồng trọt mà người ta đã tạo ra nhiều giống Sắn khác nhau.

Trong củ Sắn tươi có một độc tố ở dạng glycozit có tên là Fazơôlunatin C₁₀H₁₇O₆N; trong Sắn thường hàm lượng chất này là 2-3mg/100g, còn trong Sắn đắng là 6-15mg/100g. Chất này dưới tác dụng của dịch vị và men tiêu hoá, sẽ bị phân huỷ và giải phóng ra acid cyanhydric HCN là chất độc đối với người. Liều gây độc là 20mg cho một người lớn. Tuỳ theo hàm lượng chất độc chứa trong củ Sắn cao hay thấp mà người ta chia các giống Sắn thành 2 nhóm: nhóm Sắn ngọt có củ dùng ăn ngay được và nhóm Sắn đắng có củ phải qua xử lý mới ăn được. Có người căn cứ vào lớp da trong của củ Sắn mà chia ra: Sắn vỏ đỏ (hay Sắn ngọt) có thịt Sắn rắn chắc, luộc chóng chín và bở tung, ăn có vị ngọt bùi; Sắn vỏ vàng (Chay Sắn nghệ) thịt dẻo, không bở, có mùi thơm, ăn ngọt; Sắn vỏ trắng (hay Sắn đáng, Sắn dù, Sắn độc) có thịt màu trắng mịn chứa nhiều nhựa màu vàng, luộc lâu chín, ăn sượng và có vị đắng.

Sắn ngọt mọc yếu, cành chẻ 3 hay 2, lá xanh tươi, mặt dưới xanh trắng, cuống lá xanh tươi hay phớt hồng, thân có ít nhựa mủ, vỏ củ mỏng, lớp da trong củ mỏng. Sắn đắng mọc khỏe, cành chẻ 3-5 hay 7 nhánh, lá rậm mọc thành cụm lá xanh thẫm, mặt dưới xanh đỏ, cuống lá thường đỏ tía, nhiều nhựa, vỏ củ cứng, lớp da trong củ dày.

Ở các tỉnh phía Bắc thường trồng các giống Sắn xanh, Sắn chuối, Sắn cà lồ, Sắn trắng vỏ, Sắn nghệ, Sắn Đ₁N. Ở các tỉnh phía Nam, có Gòn Bình Dương, Gòn Phù Cát, Bình định, Mỳ cọng đỏ Quảng ngãi, Mỳ 7 chia. Còn có các giống Sắn khác như Sắn nếp. Sắn dù, Sắn vàng, Sắn khách.

Cây Sắn được trồng chủ yếu để lấy củ và được coi là một cây lương thực quan trọng (100g Sắn cung cấp 156 calo, 100g gạo cho 353 calo, 100g ngô cho 363 calo). Sắn có thể dùng làm thức ăn như làm bánh tráng, bánh phồng, bánh bông lan, bánh ổ, bánh tét, bánh ít, bánh tằm, dùng nấu xôi lá cẩm, làm bơ, làm mạch nha, làm bột tapioca.. Củ Sắn được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp thực phẩm và chế rượu.

Củ Sắn có nhiều chất bổ, trong đó thành phần chú yếu là tinh bột (ở Sắn vỏ vàng tươi 34,20%, ở Sắn trắng tươi 32,90%, nhưng hàm lượng protein, muối khoáng và các viramin tương đối thấp. Protein ở củ Sắn ít về số lượng và kém về chất lượng vì ít acid amin, Không có vitamin A, có một số Vitamin C và B₁.

Lá Sắn tươi, từ lâu nay, đã được nhân dân nhiều vùng làm rau xanh cho người. Đồng bào Mường, đồng bào Dao đã lấy lá Sắn luộc ăn. Khi đem lá Sắn về người ta vò ra cho mềm, rửa sạch, luộc bỏ nước đầu, rồi luộc tiếp cho chín (trong lá Sắn có acid cyanhydric, có thể loại bỏ dễ dàng bằng cách rửa nước kỹ 4-5 lần) để ăn chấm với nước mắm, nước cá kho... Người ta còn dùng lá Sắn muối dưa như dưa cải để nấu ăn dần khi thiếu rau tươi.

Ngày nay, chúng ta đã biết trong lá Sắn có chứa nhiều chất dinh dưỡng có giá trị Nếu đem so sánh thành phần các chất dịnh dưỡng có trong lá Sắn tươi với các loại rau xanh, thì lá Sắn hơn hẳn. Rau ngót, Rau sắng, Giá đỗ là những loại rau thực phẩm có giá trị cao, nhưng nói chung đều thua lá Sắn tươi về hàm lượng chất bột, chất đạm, chất béo, các vitamin và muối khoáng. lá Sắn khô có hàm lượng chất đạm (31,2%) tướng đương với Đậu tương (34) và cao hơn hẳn các thức ăn nhiều đạm như Lạc (27,5), Vừng (20,1)... điều này ngược với củ Sắn (ở cú Sắn khô là 3%).

Về mặt chất lượng protein, trong lá Sắn có đầy đủ các loại acid amin cần thiết. Trong 100g lá Sắn tươi của Sắn có các acid amin sau (tính theo gam): Lizin 0,24; Metionin 0,14; Triptophan 0,11; Phenylalanin 0,42; Thrionin 0,30; Valin 0,46; Leucin 0,71; Isoleucin 0,39; Acginin 0,35; Histidin 0,15.

Ngoài các chất dinh dưỡng, trong lá Sắn Cũng có một lượng chất độc đáng kể. Trung bình trong 100g lá Sắn ngọt có 8-11mg HCN, còn trong lá Sắn đắng tới 16-24mg. Do đó không nên luộc Sắn đắng để ăn mà chỉ nên phơi khô làm bột phối hợp với các loại bột khác làm bánh, hoặc dùng làm rau ăn cũng phải luộc kỹ và khi đun nấu, cần mở vung để hơi HCN bay đi.

Lá Sắn phơi khô được dùng làm nguyên liệu chiết Protein làm thực phẩm, chế bột, còn được dùng thay cám để chăn nuôi lợn, nuôi gia cầm, thay một phần cám gạo. Người ra cũng dùng lá Sắn tươi để nuôi tằm (loạt tằm ăn lá Sắn), để nuôi gia súc và nuôi cá nước ngọt.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.