Chuyển đến nội dung chính

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - HOA MUA CHỮA SAI KHỚP

PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA - HOA MUA CHỮA SAI KHỚP

* Đặc tính:
Hoa mua là một trong những loại cây quen thuộc ở nước ta. Cây hoa giản dị này cũng là cây thuốc quen thuộc của bà con các đân tộc miễn núi. Cây mua có nhiều loại, có loại màu hồng tím (dã mẫu đơn) có loại màu đỏ (mua leo), có loại màu hồng (mua núi). Tất cả đều được nhân dân dùng làm thuốc.

* Đặc tính và công dụng của từng loại hoa mua:

Cây mua hồng tím (dã mẫu đơn):
Đây là cây mua phổ biến nhất, mọc hoang ở các sườn đổi trọc, ven rừng lẫn với cây sim ở các vùng miền núi nước ta. Loại mua này mọc thành bụi, cành non có nhiều lông. Lá có hình bầu dục, mọc đối, mặt trên ráp vì có lông ngắn và cứng, mặt dưới có nhiều lông mềm. Cây ra hoa vào tháng 3 đến tháng 7, cánh hoa màu hồng tím.
Lá mua hồng tím được nhân dân ta dùng làm thuốc chữa trị nhiều bệnh:
- Chữa mụn nhọt, viêm tấy: Lấy lá tươi hơ nóng đắp. Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với lá cà pháo tươi hơ nóng đắp vào vết đau.
- Chữa tụ máu: Lấy lá tươi giã trộn với nước vo gạo đắp vào chỗ đau.
- Chữa vàng da, băng huyết: Lấy lá sao vàng sắc uống. Ngày dùng 8-16g.

Cây mua đỏ (mua ông):
Đây là loại cây có thể cao đến 2m, cành nhỏ, có lông màu đỏ. Lá mọc đối có cuống dài màu đỏ và có lông mày, 5 gân lá lồi rất rõ, mặt dưới lá màu đỏ máu. Hoa to, mọc thành cụm 3 - 5 bông màu hồng. Mua đỏ mọc hoang nhiều ở các sườn đồi núi, chỗ có ánh nắng mặt trời. Cây ra hoa vào mùa hè, từ tháng 5 đến tháng 7.
Thân lá và mua đỏ được nhân dân ta dùng làm thuốc cầm máu, chữa vết thương, sưng tấy, tê thấp. Ngày dùng 8 - I6g, sắc uống và giã đắp.

Mua núi:
Cây mua núi là một cây loại nhỏ, mọc bò, phân nhánh nhiều. Cây này mọc hoang ở rừng núi, chỗ ẩm thấp. Thân cây nhẵn, màu xanh hay tím đỏ. Lá nhỏ, mọc đối, hai mặt nhẵn. Hoa mua núi nhỏ, màu hồng và mọc riêng lẻ hoặc 2 - 3 bông ở một ngọn thân. Quả hình cầu màu đỏ hơi tím. Mua núi ra hoa, có quả vào cuối xuân đầu hè, từ tháng 4 đến tháng 8.
Toàn cây mua núi được nhân dân ta dùng làm thuốc:
- Chữa mụn nhọt, ứ huyết, tê thấp: Lấy 8g cả cây phơi khô, sắc uống.
- Chữa bệnh phù nề ở phụ nữ sau khi sinh nở: Lấy 50 - 100g cả cây nấu nước tắm.
- Chữa sai khớp: Lấy 30g cây tươi, giã nhỏ với 30g lá náng hoa trắng, 20g lá loét mồm (còn gọi là dạ cẩm), hơ nóng đắp bó.

Mua leo:
Mua leo là một loài cây dây leo, thân dài hàng chục mét, cành mảnh, hình trụ. Lá mọc đối không cuống, hình bầu dục, phiến lá nguyên có 5 gân dọc. Cây ra hoa vào cuối xuân (tháng 4 - 5), hoa mọc thành cụm ở ngọn thân hoặc kẽ lá, buông thõng xuống, cánh hoa màu hồng hoặc đỏ.
Mua leo mọc ở ven rừng thưa, nơi có nhiều ánh sáng. Mua leo (cả cây) được nhân dân ta dùng làm thuốc chữa sưng tấy, tụ máu, thường phối hợp với một số vị thuốc khác làm cao dán.

Bài viết được trích từ sách: PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA
của lương y QUỐC ĐƯƠNG, NXB Từ Điển Bách Khoa ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.