Chuyển đến nội dung chính

Tự Chữa Bệnh Bằng Cây Thuốc Nam - MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY (Phần 4)

Tự Chữa Bệnh Bằng Cây Thuốc Nam - MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY (Phần 4)

+ Trị đại tiện ra máu (máu lẫn nhiều trong phân):
Dùng đậu đen sao cháy rồi nấu nước uống hàng ngày để thanh nhiệt (uống thay nước).

+ Chữa sưng dịch hoàn:
Lấy một chén đậu đen và một nắm cam thảo sắc với 2 bát nước còn 1 bát thì uống (cách 1 - 2 giờ uống 1 lần) trong ngày.

+ Chữa mộng tinh:
Lấy 150 gam hạt tía tô, tán nhỏ để uống. Ngày uống 2 lần, mỗi lần khoảng 4 gam với rượu.

+ Trị đái buốt:
Lấy một nắm rau sam, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cho thêm ít muối hòa tan rồi uống. Uống trong nhiều ngày.

+ Chữa hạ bộ bị lở ngứa:
Lấy rau sam và thanh đại (thuốc bắc) theo tỉ lệ 4 phần rau sam thì 1 phần thanh đại, cùng nghiền thành bột trộn đều rồi đắp lên chỗ lở ngứa.

+ Chữa sưng đầu "ngọc hành":
- Đầu ngọc hành bị sưng tròn như đầu dùi trống thì lấy rau sam rửa sạch, giã nát đắp vào chỗ sưng trong khoảng 1 ngày.
- Đầu "ngọc hành" đau buốt lại bị chạy vào "bìu hạt" khiến rất đau đón, nhức nhối thì lấy hạt mã để, xát bỏ vỏ, tán thành bột rồi uống với nước cơm, ngày uống 1 lần khoảng 3g.

+ Chữa tinh trùng ít:
Lấy kỷ tử (quả và hạt rau kỷ) hoàng tinh, thục địa. Ba vị này liều lượng bằng nhau đem sấy khô tán thành bột, cho mật vào rồi viên lại thành viên để uống. Ngày uống khoảng 15 - 20g.

+ Chữa chứng dễ bị xuất tinh:
Lấy 15 - 20g hạt rau hẹ sắc thật đặc uống nóng. Ngày uống 3 lần như thế và uống trong 3 ngày liền.

+ Chữa bị phạm phòng:
Người đang lúc đau yếu mệt bệnh hoạn hoặc có chuyện hoang mang lo lắng mà vẫn "ái ân" thì bị "phạm phòng", người bị thất sắc, da vàng bụng trướng (có khi đau tức dữ dội). Dùng 1 nắm hạt cải tán nhỏ hòa với nước sền sệt rồi đắp vào rốn.

+ Chữa trẻ bị sưng "bìu hạt":
"Bìu hạt" trẻ sưng to, tấy đỏ thì lấy lá hành giã rửa sạch giã nát đắp lên bìu xát rồi lấy giẻ băng lại hoặc giã nát vắt lấy nước thoa lên chỗ sưng tấy.

+ Chữa dương vật bị lở:
Không phải do quan hệ nam nữ mà tự nhiên dương vật bỗng bị lở loét thì lấy đậu xanh và cứt trâu (khô) 2 lượng bằng nhau tán nhuyễn rỗi rịt vào chỗ lở loét.

+ Chữa dương vật cương cứng thì tỉnh trùng tự chảy:
Lấy 35g hạt hẹ và 30g phá cố chỉ nghiền nhỏ thành bột, mỗi lần dùng 4g sắc với 1 bát (bát ăn cơm) nước còn 1/4 thì chia làm 2 lần uống trong ngày.

+ Chữa đi tiểu ra tinh trùng:
Người bị suy lao, tiểu tiện ra tinh trùng (niệu tinh) thì lấy 200g hạt hẹ, 1 kg gạo cho vào 5 lít nước nấu thành cháo loãng rồi gạn lấy 1 lít nước trong. Chia làm 3 lần uống trong ngày.

+ Chữa chứng di mộng tinh:
Lấy khoảng từ 500 - 700g hạt hẹ, đổ giấm vào đun sôi lên, khi giấm đã bay hơi (cạn) hết, lấy hạt hẹ đem nghiền thành bột rồi viên lại thành từng viên như hạt ngô để uống. Mỗi ngày uống khoảng 25 – 30 viên lúc bụng đói.

Bài viết được trích từ sách: TỰ CHỮA BỆNH BẰNG CÂY THUỐC NAM
do Trần Hải Yến biên soạn, NXB Thời Đại ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.