Chuyển đến nội dung chính

Tự Chữa Bệnh Bằng Cây Thuốc Nam - MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY (Phần 5)

Tự Chữa Bệnh Bằng Cây Thuốc Nam - MỘT SỐ BÀI THUỐC HAY (Phần 5)

+ Trị nhọt chưa vỡ mủ:
Áp dụng một trong những bài sau:
- Đọt bông cẩn (bông bụt) giã nát đắp lên.
- Lá cà độc dược giã đắp.
- Đọt táo chua nhai với muối đắp lên.
- Nhựa cây sung hoặc cây dưới (duối) phết lên giấy mỏng dán vào nhọt, nhớ trừ một lỗ bằng đầu đũa giữa mảnh giấy, sưng đến đâu đắp rộng đến đấy.
- Nếu là chín mé thì lấy lá vòi voi giã với ít hạt muối cho nát, bỏ gân lá đi, đắp lên băng lại.

+ Trị nhọt đã vỡ mủ, chưa liền miệng:
- Nhựa sung phết lên giấy mỏng dán kín.
- Nhựa thông hơ lửa cho chảy, bôi lên ngày 2 lần.
- Lá cây ráy ngứa (ráy dại) ngâm vào nước sôi nửa giờ, lấy ra xé một miếng vừa đắp, còn thừa lại thả vào nước, khi nào bong ra thì thay.

+ Nhọt sưng nhức vì khó vỡ mủ:
Xuyên sơn giáp (vẩy con trút, dùng vẩy ở đuôi càng tốt, sao với cát cho phồng) 10g, tạo giác thích (gai bồ kết) 8g, hoàng kỳ 8g, đương quy 8g, bạch chỉ 4g.
Đổ 3 chén nước sắc còn 1 chén, chia uống làm 3 lần trong ngày.
Hoặc có thể dùng các phương thuốc sau:
- Nếu bị mụn mới mọc đã có hiện tượng đau nhức thì lấy 1 vốc đậu đỏ giã nát thành bột rồi trộn với 1 ít nước cho thành keo sền sệt bôi vào chỗ mụn.
- Trẻ bị mọc mụn ở đầu thì lấy 1 vốc hạt đậu đen sao tồn tính, nghiền nát cùng với nước bôi lên chỗ mụn nhọt.
- Nếu bị mụn nhọt sưng đau mà lâu ngày không vỡ độc thì lấy 1 hạt ý dĩ cho vào miệng nuốt, sau 1 lúc mụn sẽ tự vỡ ra.
- Nếu bị mụn mọc trong cổ sưng đau ăn cơm khó nuốt thì lấy 1 nắm hạt ý dĩ tán thành bột, mỗi lần ngậm 1 thìa cà phê rồi từ từ nuốt.
- Nếu bị lở loét đóng vảy vừa ngứa vừa đau thì lấy đậu ván trắng giã nát rồi hòa thêm 1 chút nước đắp vào. Khi thấy vảy rụng ra là khỏi.
- Nếu các mụn nhọt to đã vỡ miệng mãi không lành thì lấy hạt vừng đen sao cháy thơm, tán thành bột rồi rắc vào chỗ đau.
- Nếu chẳng may bị mụn nhọt ở những chỗ hiểm, để khí độc không nhiễm sâu vào bên trong, không phá ra thì lấy khoảng 100g hạt vừng đen cho vào nồi (nhôm) đun sôi lên và giữ lửa cho sôi khoảng 15 phút rồi đổ thêm vào 1 bát (ăn cơm) giấm thanh chia làm 4 - 5 lần uống.
- Nếu bị mụn nhọt nhiều, lở loét thì lấy 1 vốc hạt mè đen và cây sống đời (mỗi loại từ 20 - 30 gam) rửa sạch, giã nát, cho thêm một ít nước sôi để nguội) rồi vắt lấy nước uống, bã đem đắp vào chỗ sưng đau, sau vài lần có thể khỏi.
- Nếu bị mụn nhọt do nóng trong (gan, mật) thì lấy một nắm lá mã để tươi rửa sạch thái nhỏ nấu canh với một miếng gan lợn (100 gam) thái mỏng, ăn vào bữa trưa hàng ngày. Bên ngoài thì dùng một ít lá mã đề tươi rửa sạch, giã nát đắp vào chỗ mụn nhọt và băng lại. Cứ làm thế trong khoảng từ 5 - 7 ngày. Trong thời gian dùng thuốc không dùng các thứ cay nóng: ớt, hạt tiêu, rượu.
- Nếu trong người vì quá nóng sinh ra mụn nhọt thì lấy khoảng 20 gam có bợ tươi rửa sạch, giã nát, thêm một ít nước (sôi để nguội) rồi vắt lấy nước cốt.
Hòa thêm một bát (ăn cơm) nước, chia làm 3 lần uống trong ngày. Bã đắp vào nơi mụn nhọt, sau vài ngày là có kết quả.
- Khi bị mụn nhọt đau đớn sưng tấy thì lấy rau thài lài tía (hồng trai) và cây sống đời (mỗi loại từ 20 - 30 gam) rửa sạch, giã nát, cho thêm một ít nước sôi để nguội) rồi vắt lấy nước uống, bã đem đắp vào chỗ sưng đau.
- Nếu bị mụn nhọt sưng lở hoặc bị thương phần mềm máu ứ sưng tấy thì lấy rau dừa nước, vỏ bông gạo (lấy phần trắng bên trong), mỗi thứ 30 gam sắc hơi đặc uống. Bên ngoài thì lấy rau dừa nước giã nát, rồi trộn thêm ít giấm đắp vào chỗ đau.
- Nếu bị mụn nhọt lở loét lấy khoảng 30 gam rau cần tây rửa sạch, giã nát đắp lên chỗ đau. Nếu lấy nước giã rau cần tây thoa lên chỗ đau vào lúc lên da non thì không để lại sẹo.
- Nếu bị mụn nhọt do máu nóng thì lấy một nắm rau cần ta (bỏ rễ) rửa sạch, luộc tái ăn cả cái lẫn nước. Ăn liển trong khoảng 2 - 3 tuần là có thể giải hết nhiệt độc trong máu. Khi điều trị kiêng các loại có tính nóng: rượu, ớt, hạt tiêu...
- Nếu bị mụn nhọt sưng tấy thì lấy một nắm lá mồng tơi, khi đã có ánh nắng chiếu vào lau sạch bụi bẩn (không nên rửa) cho vào cối giã với một ít muối biển cho nhuyễn ra đắp vào nơi mụn nhọt sưng tấy.
- Khi bị mụn nhọt mà lại chảy máu cam do máu nóng thì lấy rau rút sắc loãng uống trong ngày thay nước hoặc ăn rau rút trong bữa ăn hàng ngày. Điều trị trong vài ngày.
- Khi bị mụn nhọt đang lúc sưng tấy rất đau, nhất là mụn đinh ở xung quanh miệng, không nên sờ cạy vào, dễ gây biến chứng. Lấy 1 nắm rau sam và một cục vôi khô cùng tán nhỏ mịn rồi trộn đều với lòng trắng trứng gà đắp vào chỗ sưng đau.
- Nếu bị mụn nhọt sưng đỏ rất đau thì lấy một nắm dấp cá giã nát rịt vào chỗ đau trước khi đi ngủ, sáng dậy thì bỏ đi. Lặp lại vài lần.
- Khi bị mụn nhọt, mụn đinh sưng tấy, đau nhức thì lập tức lấy một nắm lá cây kinh giới rửa sạch thái nhỏ sắc với hai bát (ăn cơm) nước, còn một bát thì uống trong ngày.
- Khi bị mụn nhọt sưng tấy đau đớn thì lấy lá định lăng giã nát đắp lên.
- Nếu mụn nhọt vỡ độc đã lâu mà không liền miệng thì lấy một nắm lá dâu già đem sấy khô, tán nhỏ rồi rắc lên vết thương sau khi đã rửa sạch bằng nước lá trầu.
- Nếu ở những chỗ đầu ngón tay lên một loại mụn độc rất đau đớn gọi là càng cua, chín mé thì lấy một nắm cây rau hẹ (cả rễ) giã nát tẩm với rượu sao vàng chườm vào chỗ đau.
- Bị gai hoặc dằm đâm vào rồi gãy ở trong lâu ngày không lấy ra được, sinh độc ở trong rất đau nhức, thì lấy một củ hành giã nát cùng với một ít muối, đắp vào chỗ đau, qua một đêm thì khỏi.

+ Chữa bỏng do nhiệt độ cao:
- Lá sống đời (lá bỏng) giã nát đắp lên.
- Muối ăn cho vào nước khuấy đến khi không tan được thì thôi, lọc sạch, lấy bông sạch tẩm dung dịch đó đắp lên rồi băng lại (bài này chỉ áp dụng khi vết bỏng chưa trầy da).
- Cho 1 cục vôi sống vào chậu đổ nước đánh tan, để 24 giờ, vớt bỏ váng, chắt lấy nước trong, pha với dầu đậu phụng hoặc dầu mè khuấy kỹ, dùng như bài trên. Có thể chế sẵn để phòng khi cấp cứu.

+ Chữa bỏng do axit:
- Lấy lá bỏng hoặc lá khoai lang giã nát vắt lấy nước mà bôi.
- Lấy lá sim sắc thật đặc để rửa.
- Lá cỏ mực (cỏ nhọ nổi) giã nát đắp lên, khô lại thay.

+ Chữa bỏng do vôi và các chất kiềm:
Trước hết dùng nước sạch, tốt nhất là nước sôi để nguội rửa cho nhạt chất gây bỏng rồi bôi thuốc.
- Lá trầu không, rửa sạch giã nát đắp ngay lên vết bỏng, ngày thay 2 - 3 lần.
Hoặc có thể dùng bài thuốc sau:
- Vôi tôi rồi
- Dầu lạc (dầu đậu phộng)
Cho vôi vào chậu đổ nước đánh tan, để 24 giờ cho vôi lắng xuống, vớt bỏ váng, lọc lấy nước trong 0,5l (nước này gọi là nước vôi nhì). Trộn nước vôi nhì với dầu khuấy đều, cất vào chai. Khi bị bỏng, dùng bông vô trùng tẩm thuốc này đắp lên, khô lại thay. Nếu vết bỏng đã trầy da thì phải rửa sạch vết thương trước khi đắp thuốc.
- Lấy cơm nguội phơi khô (cơm ăn còn thừa phơi khô cất đi gọi là cơm khô) sao lên, tán thành bột nhỏ mịn hòa lẫn vào nước cơm, xoa lên vết bỏng, thấy khô lại xoa tiếp. Thấy da bị lột lấy bột cơm khô rắc lên rất mau lành.
- Khi bị bỏng hoặc sưng tấy thì lấy dầu mè (vừng) nấu chín vài lá rau diếp, bỏ ra cho bớt nóng rồi đắp lên chỗ sưng, để nguội hẳn đắp lên chỗ bị bỏng.
- Lấy khoảng 10 lá trầu không rửa sạch giã nát hòa với rượu hoặc mỡ nước (mỡ lợn) nhẹ nhàng đắp lên chỗ bị bỏng, rất công hiệu.
- Lấy một nắm lá trầu không rửa sạch, nhai kỹ, ngậm nước phun vào vết bỏng sẽ hết đau rát mà không phồng da.
- Lấy một nắm lá trắc bách điệp rửa sạch giã nhuyễn đắp vào chỗ bị bỏng, rịt nhẹ lại, khi khỏi sẽ không để lại sẹo.
- Lấy một ít lá mướp rửa sạch, giã nhuyễn đắp vào chỗ bỏng.
- Lấy một nắm lá vông nem rửa sạch nhai nhỏ đắp vào vết bỏng.
- Lá đâu và lá phù dung hái vào mùa trời nhiều sương đêm, phơi trong bóng mát rồi cất đi để khi bị bỏng dùng đến: hai loại lá này tán nhỏ hòa với mật mía (hai loại lá lượng bằng nhau) đắp vào vết bỏng.
- Lấy cây khoai nước cả lá lần củ rửa sạch, giã nhuyễn đấp vào vết bỏng.
- Lấy rêu ở những bức tường cổ hoặc tường cũ đốt thành tro trộn với dầu mè (vừng) thoa nhẹ lên vết bỏng.
- Hái dưa chuột vào ngày tết đoan ngọ (5 - 5) để vào trong bình, trát kín miệng để nơi thoáng mát dùng dần. Khi bị bỏng giã nát dưa hòa với nước hoặc dầu mè (vừng) thoa vào chỗ bỏng.
- Lấy hạt nhãn khô, giã nhỏ trộn với mật ong thoa vào chỗ bỏng.
- Lấy một nắm hạt mè (vừng) giã nhuyễn như bùn, đắp vào chỗ bỏng.
- Lấy hạt dành dành đốt cháy, tán bột trộn với dầu mè (vừng) thoa nhẹ tay vào vết bỏng.
- Lấy một ít củ cải tươi (hoặc hạt cải củ) rửa sạch, giã nhuyễn, đắp vào vết bỏng.
- Lấy vỏ dưa hấu phơi khô, nghiền mịn cho dầu mè (vừng) vào trộn đều, cất vào lọ đậy nắp kín, hấp trong nồi áp suất để sát trùng. Khi bị bỏng dùng bôi vào chỗ vết thương.
- Bị bỏng loét và nhiễm trùng thì lấy bông mã đề lá cối xay, sài đất, kim ngân hoa mỗi thứ 12 gam sắc với khoảng 1 lít nước còn 1/3 lít thì uống (chia làm 2 - 3 lần)
- Lá rau bợ tươi rửa sạch giã nát rồi đắp lên chỗ bỏng.
- Lấy vỏ cây liễu đốt thành than, tán nhỏ rắc phủ lên vết bỏng.

Bài viết được trích từ sách: TỰ CHỮA BỆNH BẰNG CÂY THUỐC NAM
do Trần Hải Yến biên soạn, NXB Thời Đại ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.