Tên khác: Huệ ta; Văn hương ngọc
Tên khoa học: Polianthes tuberosa L. Họ loa kèn đỏ (Amaryllidaceae).
Nguồn gốc:
Cây có nguồn gốc Mêhicô châu Mỹ, được trồng ở Đông Nam Á, như ở Indonesia, Việt Nam. Ở Indonesia, cây được trồng ở độ cao 1 - 400m, để làm cảnh và lấy hoa thơm. Ở Việt Nam, cây được trồng làm cảnh và lấy hoa thơm để cúng lễ. Hoa thơm tỏa về đêm nên có tên đẹp là Văn Hương Ngọc, thường được cắm vào bình trong những ngày lễ, tết. Huệ thường được dùng ở một số nước vùng nhiệt đới. Cây ưa nắng, cho hoa 4 mùa. Nếu có nhiều ngày nhiệt độ dưới 10°C, cây sẽ ít ra hoa. Cây ưa đất sét pha; hơi ẩm, không chịu được đất chua, cớm bóng; mùa trồng từ tháng 2 đến tháng 5; không nên trồng vào mùa hạ và mùa đồng rét. Cây trồng bằng củ, từ khi trồng đến lúc ra hoa là từ 100 - 120 ngày. Hoa ra liên tiếp 3 - 4 tháng; mỗi đợt trồng cho hoa 2 - 3 năm, sau đó trồng lại.
Mô tả:
Cây thảo sống nhiều năm, thân thắng đứng màu xanh lục thẫm, cao 0,8 - 1m; rễ chùm phình ra thành củ. Lá đơn, dài và hẹp, mọc từ gốc. Hoa xếp thành chùm dài thẳng, trắng muốt và thơm ngát. Có 2 giống chính: Huệ đơn (Huệ xẻ), cây thấp; cụm hoa ngắn và thưa; Huệ kép (Huệ tứ diện), cây cao, cụm hoa dài và sai.
Bộ phận dùng:
Chùm hoa làm hoa cúng lễ.
Rễ củ: có chứa hợp chất saponin steroid, là nguyên liệu dùng để điều chế thuốc.
Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang,
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.
Nhận xét
Đăng nhận xét