Tên khác: Cúc chuồn chuồn.
Tên khoa học: Cosmos bipinnatus Cav., Họ Cúc (Asteraceae)
Nguồn gốc:
Cây Cúc thuộc chi Cosmos Cav (chi Cúc chuồn chuồn); nguồn gốc: châu Mỹ nhiệt đới. Chi này gồm những cây hoa thuốc họ Cúc (asteraceae) có lá kép lông chim, cụm hoa hình đầu, hoa màu sặc sỡ, màu trắng, hồng hoặc tía v.v... Ở Indonesia trồng các cây Cúc Cosmos caudatus H. B. K. Ở ruộng, ven sông, bãi đất hoang, ở độ cao 10 - 1.400m; cây thảo cao 0,6 - 2,5m. Hoa màu vàng. Ngoài ra, ở Java (Indonesia) ở độ cao 1000m còn trồng Cúc cosmos sulfereus Cav., cây nguồn gốc trung Mỹ; là cây thảo, ăn được; hoa làm thuốc nhuộm màu.
Mô tả (Cúc Ngũ Sắc):
Cây hoa ngắn ngày cao 60 - 80 cm, thân mềm, dẻo, nhiều nhánh, lá xẻ lông chim 2 lần. Cụm họa hình đầu, màu hồng hay tía, giữa màu vàng. Hoa đẹp, nhiều màu nhưng chóng tàn. Cây thường trồng thành khóm, thành thảm hoa. Cây dễ trồng, ưa khí hậu mát, nhưng cũng chịu được nắng hạn, chịu rợp vừa phải nhưng không chịu được nước đọng; chủ yếu được gieo trồng vụ đông xuân; hạt gieo 3 - 4 ngày đã mọc; sau 8 - 10 ngày gieo, bứng cây vào vườn ươm khoảng 12 - 15 ngày trước khí trồng ra vườn. Từ lúc trồng đến lúc ra hoa là 60 - 65 ngày (vào mùa rét), 45 - 50 ngày (vào mùa nóng).
Mùa rét, cây ra hoa kéo dài trên 2 tháng - mùa nóng, hoa chóng tàn. Cây trồng làm cảnh và lấy hoa đẹp.
Ở Indonesia trồng các cây Cúc Cosmos caudatus H. B. K ở ruộng, ven sông, bãi đất hoang. Hoa vàng làm chất nhuộm màu. Lá chữa chứng biếng ăn, chán ăn (anorexia).
Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang,
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.
Nhận xét
Đăng nhận xét