Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - ĐÀO PHAI

Cây Hoa Chữa Bệnh - ĐÀO PHAI

Tên khác: Đào, May phắng (Tày), Cơ tào (Thái), Phiếu kiao (Dao), Mao đào.
Tên khoa học: Amygdalus persica L. [Prunus persica (L.) Batsch]; Họ hoa Hồng (Rosaceae).

Nguồn gốc:
Cây Đào có nguồn gốc ở Trung Quốc và Ba Tư từ lâu đời và được ưa trồng ở các nơi trên thế giới như: Việt Nam, Nhật Bản Thái Lan, Hoa Kỳ, vùng Địa Trung Hải... Ở Việt Nam, Đào được trồng từ lâu đời, tại các tỉnh miền núi, trung du phía Bắc và vùng đồng bằng sông Hồng, nhất là các làng quanh Hồ Tây, Hà Nội nổi tiếng về Đào cảnh, Đào hoa.
Đào quả mọc tốt ở miền núi Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai (Sapa), Hoàng Liên Sơn, Hà Giang...
Cây Đào mọc tốt ở nơi có khí hậu ôn đới, cận nhiệt đới. Đào phát triển tốt trên đất thịt pha, cao ráo, dễ thoát nước; pH 6 - 7. Gây giống bằng hạt hay ghép cành. Có thể điều khiển cho cây ra họa bằng cắt tỉa cành, hãm cây (khía vỏ, tuốt lá dần) hay bón thúc nếu hoa nở chậm. Trồng Đào ăn quả, thường dùng phương pháp ghép mắt. Nếu muốn nhân các giống Đào có phẩm chất tốt, người ta thường dùng cách chiết cành. Năng suất quả Đào có thể đạt 10 - 15 tấn quả tươi/ năm, nếu chăm sóc tốt. Thời gian bảo quản quả rất ngắn, cần vận chuyển, tiêu thụ nhanh.

Mô tả:
Cây gỗ nhỏ, rụng lá theo mùa, cao 3 - 8 m, rễ cọc ăn sâu, nhiều rễ con ăn ngang; cành non, nhẵn; thân nhẵn, phân cành nhiều và thấp. Lá đơn, mọc so le, hình mác hẹp, mép khía răng; dài 5 - 8 cm, rộng l - 2 cm; lá vò ra có mùi Hạnh nhân. Hoa màu hồng nhạt hoặc đỏ thắm, đường kính khoảng 2 - 3 cm; thường mọc dày đặc trên cành, trước khi cây ra lá; đài có lông, tràng nhẵn, nhiều nhị (35 - 40 nhị). Hoa đơn màu phớt hồng ở loại Đào ăn quả; hoa kép có nhiều lớp cánh ở loại Đào hoa. Hoa nở vào mùa xuân; quả hạch, gần giống hình cầu, đường kính khoảng 3 - 8 cm, có một rãnh bên chạy theo đọc quả; phủ đầy lông tơ mịn, khi chín rất thơm, màu vàng lục nhạt, đôi khi có những đốm nhỏ đỏ. Hạt cứng nằm trong vỏ quả, có nhiều rãnh sâu; hạt không có nội nhũ, thịt quả màu trắng xanh hoặc vàng, đỏ. Mùa hoa: tháng 1 - 3; mùa quả: tháng 6 - 8.

Bộ phận dùng:
Hoa trang trí, làm thuốc; quả để ăn; nhân hạt (Đào nhân), lá, rễ, nhựa Đào làm thuốc.

Thành phần hoá học:
Quả Đào: Có ít tinh dầu, acetaldehyd, ester linalol valerianat, acetat, 0,90% protein, 6,4% glucid, 20 mg% calci, acid citric, chlorogenic, oxalic; 34mg% phosphor, 20mg vitamin C, 0,5mg% caroten, 0,2-0,5mg% vitamin B1-B2 0,9mg% vitamin PP.
Đào nhân: Amygdalin, (24-methylen cycloartamol), emulsin, citrostadienol, (7-dehydro avena sterol), prunasin, b-sitosterol, campesterol, (b-sitosterol-3-O-b-D-gluco pyranosid)..., tryplophan, glucose, sucrose, acid chlorogenic, (3-caffe oxyquinic acid), (3-feruloylquinic acid), (3-p-coumaroylquinic acid), triolein, acid oleic, acid linoleic.
Lá Đào: Flavonoid (quercitrin, kaempferol), acid quinic và cafeic, tanin amygladin, naringemin, trifolin lycopen.
Nhựa cây Đào: L-arabinose, D-xylose, galactose, L-rhamnose và acid D-glucuronic
Hoa Đào: Kaempferol, coumarin, trifolin, naringenin.

Tác dụng:
Quả Đào: Cùng cấp năng lượng, làm dễ tiêu, lợi tiểu, nhuận tràng nhẹ. Đặc biệt có mùi thơm dễ chịu khi quả chín; đem chưng cất sẽ được tinh dầu thơm trong có các ether, có linalol acid formic, acetic, valeric, caprylic, acetaldehyd purpurol, cadinen. Quả Đào được chỉ định chữa chứng khó tiêu, tiểu ra máu, sỏi tiết niệu. Quả Đào còn dùng dưỡng da mặt đối với phụ nữ.
Đào nhân: Có tác dụng được lý
- Đối với hệ thống tuần hoàn
- Chống ngựng huyết
- Chống viêm
- Chống quá mẫn (anti-allergy)
Hoa Đào: Thu hoạch nụ (trước khi hoa nở) có tác dụng nhuận tràng nhẹ, được bào chế dưới dạng biệt dược như dược trà hoặc thuốc hãm (tisane).
Hoa Đào còn có tác dụng làm dịu, giảm đau, chống co thắt.
Lá Đào: Trị giun, sát trùng
Nhựa Đào: Lợi niệu, thông lâm
Rễ Đào: Hành huyết, chỉ thống (ngừng đau)

Theo Đông y:
1. Quả Đào: Cam, toan, bình; vào các kinh vị, đại trường; ích vị, sinh tân, nhuận trường táo. Chủ trị: Vị âm bất túc, miệng khát, họng khô, hoặc đường ruột (đạo trường) táo nhiệt, đại tiện táo kết. Có thể dùng ăn sống hoặc hấp chín để ăn.
2. Đào nhân: Khổ, cam, bình; vào các kinh tâm, can, đại tràng.
Công năng: Hoạt huyết, trừ đàm, nhuận tràng thông đại tiện.
Dùng điều trị: Kinh nguyệt bế tắc, hành kinh đau bụng, hòn cục bí khối; bị đánh bị ngã tổn thương; táo bón, đại tiện bí kết.
Liều dùng: 6 - 9g.
Kiêng kỵ: Có thai, không được dùng.
3. Hoa Đào: Khổ, bình, không độc; vào kinh: thủ thiếu âm, túc dương minh; lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện.
Chủ trị: Thủy thũng, cước khí, đàm ẩm, tích trệ, nhị tiện (đại, tiểu tiện) bất lợi, bế kinh.
Cách dùng: 3,8 - 6,4g sắc thuốc hoặc tán bột để uống.
Dùng ngoài: Tán thành bột, đắp chỗ đau.
4. Lá Đào: Khổ, bình; vào 2 kinh tỳ, thận; khu phong thấp, thanh nhiệt, sát trùng.
Chủ trị: Đầu phong, đầu thống; phong tê (tý), ngược tật (sốt rét), thấp chẩn (eczema), sang dương, tiên sang.
Cách dùng: Sắc nước để rửa; dùng trong: sắc thang để uống.
5. Nhựa Đào (Đào giao): Cam, khổ; bình; không độc.
Chủ trị: Thạch lâm (sỏi niệu): huyết lâm (tiểu ra máu); lỵ.
Cách dùng: dùng 19 - 38g, sắc thang hoặc bào chế thành hoàn, tán đề uống.
6. Đào căn (rễ hoặc vỏ rễ): Khổ, bình, không độc.
Công dụng, chủ trị: hoàng đản, thổ huyết, chẩy máu cam, bế kinh, ung thũng, trĩ sang, Cách dùng: 76 - 114g, sắc thang uống.
Dùng ngoài: Sắc nước, rửa chỗ đau.
7. Đào chi (cành Đào): Vị đắng.
Điều trị: Tâm phúc thống (đau thắt ngực).
Cách dùng: Dùng 80 - 120g lạng, sắc thang uống.
Chú thích: Dược liệu này có ghi trong Nam Dược Thần Hiệu, Tuệ Tĩnh.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.