Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOA HỒNG ĐỎ

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOA HỒNG ĐỎ

Tên khác: Hoa Hồng Pháp
Tên khoa học: Rosa gallica L.; Họ hoa Hồng (Rosaceae).

Nguồn gốc:
Cây có nguồn gốc Phương Đông và Nam Âu; (Rosier de provins ở Pháp, Vùng Paris và Anjou có trồng). Hoa Hồng đỏ là một trong số ít loại hoa Hồng (trên tổng số 10.000 chủng hoa Hồng) được dùng làm thuốc.
Hoa Hồng được tôn vinh là Hoa hậu của các loài hoa. lịch sử của hoa Hồng gắn liền với lịch sử của loài người. Có lẽ đây là cây hoa đầu tiên được con người đem trồng. Hoa Hồng còn liên quan đến đa số các tôn giáo; đến các tập tục, nghi lễ thờ cúng linh thiêng từ Ấn Độ đến các nước theo đạo Cơ đốc. Trải qua các thời kỳ cổ Hy Lạp, La Mã v.v...có người chiến binh ở Tây Âu khi ra trận không đội mũ sắt mà chỉ đội trên đầu một vòng hoa Hồng đỏ để tỏ rõ lòng can đảm của mình. Hoa Hồng cũng đã chứng kiến những cuộc chiến tranh lịch sử như ở nước Anh, cuộc nội chiến “Nhị Hồng” (Guerre de Deux Roses 1455 - 1485); một phái chỉ mang biểu tượng hoa Hồng bạch, một phái mang biểu tượng hoa Hồng đỏ. Phái Hồng bạch đã thắng, kết thúc thời kỳ nội chiến xâu xé nhau ở nước Anh thế kỷ 15... hoa Hồng cũng liên quan đến nghệ thuật (sành) ẩm thực. Vào thời kỳ Để quốc La Mã suy đồi, người ta đã ăn bánh ga tô hoa Hồng, mứt hoa Hồng, các món ăn có gia vị chế biến từ hoa Hồng, uống vang hoa Hồng v.v...

Mô tả:
Cây hoa Hồng đỏ là cây bụi thấp; thân cây có loại gai thẳng loại gai cong và có lông tiết. Hoa có 5 cánh hoa chính và những cánh phụ; hoa mọc 1 - 2 đoá, cuống và đế hoa có nhiều lông tiết. Hoa rất đẹp, màu đỏ mượt mà như nhung; rất thơm, quả hình cầu tròn.

Bộ phận dùng:
Những cánh hoa, thu hái hoa vào tháng 6; 8 phần cánh hoa tươi cho 1 phần hoa khô (phơi trong râm). Cánh hoa khô có mùi dược liệu dễ chịu.

Thành phần hoá học:
Có chất màu, acid gallic, quercitrin, chất đường, tanin (tương đối nhiều).
Độ tro 3,5%. Hoa khô không còn tinh dầu như hoa tươi.

Tác dụng:
Chất tanin làm se. Các thây thuốc ả rập là người đầu tiên làm thuốc từ hoa Hồng, để chữa các bệnh phổi, kể cả bệnh lao. Dược liệu cánh hoa Hồng đỏ đã được đưa vào các Dược Điển (Codex) trước đây và ngày nay. Hoa Hồng Pháp di thực trồng ở Sapa (Lào Cai), Đà Lạt Việt Nam có giá trị cao.

Công dụng:
Làm thuốc rà miệng (collutoire) và thuốc súc họng (gargarismes).

Cách dùng, liều lượng:

1. Dùng cánh hoa Hồng đỏ tươi (1 phần), giã nhỏ, thêm 3 phần (trọng lượng) đường rồi thêm nước hãm hoa Hồng vừa đủ, làm thành bột nhão (trông như mật). Liều dùng 50g- 100g một ngày; có tính chất kháng khuẩn.

2. Mật ong hoa Hồng (Miel rosat): Trị viêm họng, đau họng, viêm niêm mạc miệng: Đun 20g cánh hoa Hồng (chú ý: không lẫn cánh to này với các móng cánh hoa) (onglet) với 100g mật ong; đun sôi 10 phút; lọc, vắt qua vải phin. Uống từng thìa cà phê.

3. Nước thuốc rửa mắt và gạc tấm thuốc để chữa đau mắt; chữa viêm màng kết mạc: Lấy 40 - 50 g cánh hoa Hồng khô, thêm 1 tít nước sôi; hãm 10 - 15 phút rồi dùng làm thuốc rửa mắt.

4. Có thể dùng nước sắc lá cây hoa Hồng đỏ để chữa ỉa chảy, lỵ: Lấy 30 - 40g lá thêm 1 lít nước; đun sôi lâu 2 - 3 phút; hãm thêm 10 phút. Uống 2 -3 chén thuốc nước này trong 1 ngày.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.