Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOA CAM

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOA CAM

Tên khoa học: Flores Aurantii

Nguồn gốc:
Hoa Cam thu hái từ một số loài cây Cam khác nhau. Cây Cam có nguồn gốc ở Đông Bắc Ấn Độ và Nam Trung Hoa, thường mọc và được trồng ở vùng khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới, ở độ cao 1 - 100 m trên mặt biển. Cây bụi nhỏ, cao 0,50 - 3,5 m, quả khi già màu vàng cam, vỏ cùi có tinh dầu thơm làm gia vị thực phẩm. Có nhiều loài Cam thuộc chi Citrus L. Ở đây chỉ nêu chung 2 loài cho hoa Cam làm thuốc và lấy tinh dầu: đó là loài Cam đắng Citrus aurantium L. var. amara Link (bitter orange Bigaradier) và Cam ngọt (Citrus aurantium L. var. dulcis Pers (sweet orange, Oranger doux); họ Cam (Rutaceae). Hai loài được trồng ở nhiều nước, đặc biệt là vùng Địa Trung Hải.

Mô tả:
Cây Cam đắng: Cây nhỏ có gai, lá hình trái xoan, tương đối dai, sáng bóng, cuống có đốt, có cánh; hoa mọc ở kẽ lá; hoa màu trắng rất thơm. Quả mọng nước, vỏ ngoài màu vàng, cam, đỏ. Nước Cam chua và rất đắng.
Cây Cam ngọt: Gần giống cây Cam trên, nhưng có hoa nhỏ hơn và ít thơm hơn, Quá to hơn và ăn có vị ngọt.

Bộ phận dùng:
Hoa Cam đắng dùng làm thuốc và cất tinh dầu. Quả Cam ngọt dùng để ăn, vỏ quả làm thuốc và điều chế tinh dầu.
Tinh dầu hoa Cam đắng (Oleum Aurantii forum, Oil of Neroli Essenece de fleur d’ oranger) được cất kéo bằng hơi nước từ hoa tươi, hiệu suất 0,015 - 0,085%, Ngoài tinh dầu còn thu được nước chưng cất gọi là nước hoa Cam.
Ngày nay, người ta thường dung môi thích hợp để chiết xuất tinh dầu từ hoa Cam. Tinh dầu chiết ra có mùi thơm giống như tự nhiên hơn là chưng cất bằng hơi nước. Thành phần tinh dầu chủ yếu có: methylester của acid anthranilic, l-linalyl acetat, terpineol, linalool, geraniol, nerol, nerylacetat, d-nerolidol Jasmon, farnesol.

Thành phần hoá học (của Cam):
Ngoài tinh dầu chiết xuất từ hoa, lá và vỏ quả Cam ra, còn có những hoạt chất khác như: chất đắng, các chất flavonoid nhất là những hesperdiosid, rhamnoglycosid của hesperetol. Ngoài ra còn có naringosid, eriodyctiosid, acid ascorbic, pectin, v.v...

Tác dụng:
Lá và hoa Cam có tác dụng chống co thắt nhẹ. Vỏ Cam có chất bổ đắng. Flavonoid Cam có tác dụng của vitamin P, làm bền mao mạch, phòng chống xuất huyết dưới da.

Công dụng, cách dùng:
Vỏ Cam, lá, hoa Cam: Thuốc trợ tiêu hoá, gia vị thơm.
Dạng thuốc: Nước cất hoa Cam đắng, sirô hoa Cam đắng, sirô vỏ Cam đắng và vỏ Cam ngọt.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.