Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOÀNG LAN

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOÀNG LAN

Tên khác: Ngọc lan tây, Y lăng Y lăng.
Tên khoa học: Cananga odorata Hook f. et Thomas. Họ Na (Annonaceae).

Nguồn gốc:
Cây nguồn gốc ở đảo Molucca, Indonesia. Cây được trồng nhiều ở vùng Đông Nam Á như ở Indonesia (ở độ cao 10 - 1.800m), ở Philppin, Việt Nam và ở các nơi khác, như Madagasca, Reunion, Comore. Chủng, thứ loài nổi tiếng nhất là ở Philippin, Reunion, Comore.

Mô tả:
Cây gỗ to, cao 10 - 40m, mọc hoang ở trong rừng, hoặc trồng làm cảnh, hay lấy hoa để điều chế tinh dầu. Cành cây hơi khúc khuỷu, cành ngang mọc hơi rủ. Lá mọc cách theo 2 hàng: phiến lá hình trứng, hơi lượn, mặt nhẵn. Hoa mọc thành những nhánh ngắn, không lá, màu vàng lục; nhị đực nhiều; ra hoa quanh năm; hoa thơm mát có thể chưng cất lấy nước hoa. Cây thường được trồng quanh nhà, hoặc ở công viên.

Bộ phận dùng: Hoa dùng cất lấy tinh dầu.

Thành phần hoá học:
Tinh dầu chứa linalool tự do và linaloal ester hoá, safrol, eugenol, geraniol; pinen, sesquiterpen; cadinen, benzoat benzyl; các acid acetic, benzoic, formic, salicylic, valeric (phối hợp với nhau); cresol, isosafrol. (Tinh dầu từ Hoàng lan, được chưng cất bằng hơi nước rất thơm, chất lượng tốt; hiệu suất 1,5 - 2% gọi tên là tinh dầu Y lăng. Nếu chiết suất bằng ether đầu hỏa, hiệu suất sẽ được 0,7 - 1,5%, chất lượng kém hơn, màu thẫm hơn, sẽ có thêm chất nhựa gọi tên là “tinh dầu Cananga”).

Tác dụng:
Giảm tăng biên độ hô hấp; giảm thở nhanh, sâu (hyperpnea); giảm nhịp tim nhanh; hạ huyết áp; giảm phản xạ, làm dịu phản xạ và kích thích; sát trùng và có thể kích dục.

Công dụng:
Trị nhịp tim nhanh, cao huyết áp, nhiễm trùng đường ruột, điều trị chất tiết ra có mủ, chữa liệt dương, lãnh đạm tình dục.

Cách dùng, liều lượng:
1. Dùng trong: Tinh dầu Y lăng 2 - 3 giọt, nhỏ trên một miếng đường; mỗi ngày dùng 3 - 4 lần.
2. Dùng ngoài: Nhũ tương tinh dầu và nước, hoặc cồn thuốc (teinture), xoa bên ngoài.
3. Ngoài ra, tính dầu Y lăng còn được dùng nhiều trong công nghệ nước hoa, với chất lượng cao:
Nước hoa "Manila Y lang" ( Y lang Y lang Ess-bouquet de Manila), trong đó có: tinh dầu Y lăng 9g, tinh dầu hoa Hồng 1,0g, tinh dầu hoa Cam 0,5g; vanilin 0,25g: bôm Tôlu 250,0g; nước cất hoa Hồng 125,0g và cồn 90% vừa đủ 1000,0g.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.