Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - KIM NGÂN HOA

Cây Hoa Chữa Bệnh - KIM NGÂN HOA

Tên khác: Nhẫn đông hoa; Boóc kim ngân (Tày), Chừa giang khằm (Thái); Ngân hoa; Quan hoa; Lưỡng bảo hoa; Ngân đằng.
Tên khoa học: Lonicera Japonica Thunb; Họ Kim ngân (Caprifoliaceae).

Mô tả:
Dây leo bằng thân quấn, chất gỗ, thường xanh, thân rỗng, cảnh già màu nâu nhạt, trơn bóng, không có lông, cành non màu lục, có lông màu vàng, mềm. Lá mọc đối, phiến dày, hình trái xoan, gốc tròn, đầu nhọn, dài 3 - 8cm; lá non 2 mặt đều có lông mềm vàng, lá già hầu như không có lông. Cụm hoa là xim hai hoa, mọc ở đầu ngọn. Đầu mùa hạ, hoa nở, mọc đôi ở kẽ lá, hoa dạng ống; khi mới nở màu trắng, hương thơm, sau chuyển thành màu vàng kim cho nên được gọi là hoa vàng hoa bạc (Kim ngân hoa): họa có lông mịn. Quả mọng hình cầu màu đen bóng. Hái hoa khi mới nở. Mùa hoa: tháng 3 - 5. Mùa quả: tháng 6 - 8. Có thể hái dây Nhẫn đông với lá già quanh năm.
Ở Việt Nam, cây mọc hoang ở những vùng rừng núi ưa ẩm và ánh sáng, thường leo lên cây bụi, cây gỗ ven rừng đá vôi, rừng thứ sinh hay đồi cây bụi, gần nguồn nước. Cây được trồng làm cây thuốc, cây cảnh với tán lá xanh tốt quanh năm, hoa đẹp và thơm. Kim ngân hoa mọc hoang và được trồng ở các tỉnh như Lạng Sơn, Cao Bằng, Hoà Bình, Hà Tây, Hoàng Liên Sơn, Thanh Hoá.

Bộ phận dùng:
Hoa, cành và lá. Họa thu hái vào đầu mùa hạ, lúc hoa còn đang nụ sắp nở, đem tãi nong phơi sấy khô ngay.
Dược liệu: hoa Kim ngân, trên to dưới nhỏ, hơi cong. Cả nụ dài 2 - 3cm, đường kính phần trên khoảng 0,35cm, phần dưới khoảng 0,15 cm; mặt ngoài màu trắng vàng có lông nhung ngắn mọc dày, Hoa hình ống, nụ hoa ở đỉnh thành hình môi; phía dưới đáy có đài hoa màu lục, có 5 cánh, dài khoảng 0,16cm. Trong ống tràng hoa có 5 nhị, 1 nhụy, vôi nhụy màu xanh. Nụ hoa có mùi thơm, vị hơi đắng. Kim ngân hoa chưa nở màu trắng ngà, chất nặng là loại tốt; hoa đã nở màu vàng nâu, chất nhẹ là loại vừa. Kim ngân hoa, loại bỏ tạp chất, rây bỏ đất bụi, nhặt hết cuống hoa là dùng được (Flos Lonicerae; Honeysuekle flower). Bảo quản nơi khô ráo, phòng ẩm mốc, rêu mọt,

Thành phần hoá học:
Nụ hoa Kim ngân chứa các chất kháng khuẩn như acid chlorogenic, acid isochlorogenic. Ngoài ra còn có inositol, saponin, scolymosid (Lonicerin), carotenoid (b-caroten, cryptoxanthi, auroxanthin), luteolin, ginnol, b-sitosterol, stigmasterol, b-sitosteryl-D-glycosid, stigmasterol D-glycosid. Hoa chữa tinh dầu thơm, trong đó có: linalool (cis 3, 6, 6-trimethyl 2-vinyl 5-hydroxy-tetrahydropyran), ethylpalmitat, (1,1 bicyclohexyl), methyllinoleat, (3-methyl-(2 pentenyl)-2-cyclopenten-1-on), (trans-trans-farnesol), ethyl linolenat, b-cubeben, (cis 3-hexen-1-ol), a-terpineol, geraniol, benzylbenzoat, (2-methyl-1-butanol), benzylalcohol, phenethylalcohol, cis-linalool oxyd, eugenol, carvacrol.

Tác dụng:
Tác dụng kháng virus; Kháng độc; Kháng viêm, giải nhiệt; Tác dụng đối với hệ miễn dịch cơ thể; Hạ huyết chi (trị tăng huyết chi hyperlipemia); Hưng phấn trung khu thần kinh; Kháng sinh dục, kháng đối với thai non (tảo dựng).

Theo Đông y:
Tính vị, quy kinh: Cam, hàn; vào các kinh phế, tâm, vị.
Công năng: (hoa) Thanh nhiệt giải độc, lương tán phong nhiệt; còn Nhẫn đông đằng thông (kinh) lạc, trừ tê đau.
Điều trị: Ung nhọt, ban sởi, mề đay, lở ngứa, nhiệt huyết độc lỵ, ho do phế nhiệt, đan độc (viêm quầng); cảm mạo phong nhiệt, ôn bệnh phát nhiệt (Dược Điển Việt Nam II).
Những chỉ định chính:
1. Bệnh cúm, nhiễm khuẩn đường hô hấp trên, viêm hạnh nhân (amiđan); viêm kết mạc cấp.
2. Viêm ruột non.
3. Bệnh mủ da, (pyodermas), vết thương nhiễm trùng.
4. Xước cổ tử cung (cervical erosion).
Liều dùng: 10 - 60g (theo Medicinal plants in China; WHO, 1989)

Bài thuốc chọn lọc (nghiệm phương):

1. Chủ trị lỵ trực trùng: Kim ngân hoa (hoặc lá) 15g, Xa tiền thảo 20g; Sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang; uống liền 5 - 7 ngày.

2. Chủ trị lợi răng sưng đau: Kim ngân hoa 15g, đường trắng 5g; Kim ngân hoa, sắc nước, bỏ bã; thêm đường trắng số lượng thích hợp, chia làm 2 lần uống trước bữa cơm sáng và bữa cơm chiều.

3. Chủ trị đề phòng mụn nhọt mùa hạ: Kim ngân hoa 30g, Dã Cúc hoa (Kim Cúc) 15g, Cam thảo 3g: sắc nước uống, ngày 1 thang.

4. Chủ trị viêm túi mật: Kim ngân hoa 30g; Bồ công anh 15g, Bản lan căn 15g; sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang.

5. Chủ trị dự phòng viêm màng não truyền nhiễm: Kim ngân hoa 15g, Hạ khô thảo 15g, Đại thanh diệp 15g; hãm trà, uống trước hoặc trong mùa phát bệnh.

6. Chủ trị viêm thận cấp: Kim ngân hoa 15g, Bạch mao căn 30g; sắc uống 1 ngày 1 thang, uống liền 5 - 7 ngày.

7. Chủ trị viêm mủ vùng mặt, vùng cổ: Kim ngân hoa 15g, Trúc diệp 10g, Dã Cúc hoa 15g; sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang; uống liền 5 - 7 ngày.

8. Chủ trị mụn nhọt sưng: Kim ngân hoa 15g, Tạo giác thích 15g, Tử hoa địa linh 30g, Dã Cúc hoa 20g; sắc nước uống, mỗi ngày 1 thang.

9. Chủ trị ngoại cảm phong nhiệt: Kim ngân hoa 12g, Đại thanh điệp 15g, Bạc hà 9g; sắc nước uống, ngày 1 thang.

10. Chủ trị viêm khớp phong thấp (chỗ đau sưng nóng đỏ): Nhẫn đông đằng 30g, Ủy linh tiên 15g, Sinh thạch cao 30g; sắc nước uống, ngày dùng 1 thang.

11. Chủ trị Dự phòng cảm mạo lây lan: Kim ngân hoa 6g, Dã Cúc hoa 6g, Đại thanh diệp 10g; sắc nước, chia 2 lần uống trong thời gian bệnh lây lan; uống liền 5 ngày.

12. Chủ trị Hoại thư thuộc khí: Kim ngân hoa 30g, Tích tuyết thảo 60g, Nhất điểm hồng 30g, Dã Cúc hoa 30g, Bạch mao căn 30g, Bạch Hoa xà thiệt thảo 60g; sắc nước uống, ngoài ra, dùng Nữ trinh tử, Tiễn phật giáp thảo, số lượng thích hợp, dã nát, đắp ngoài.

13. Chủ trị sau khi sinh đẻ, cửa mình sưng đau: Kim ngân hoa 60g, Trần ngải diệp 15g, Hoàng bá 15g, Sinh Cam thảo 30g: lấy nước trong 2.500ml, cùng các vị thuốc trên sắc đặc, đổ vào chậu. Bệnh nhân trước hết xông; khi nước thuốc chuyển sang ấm, sẽ ngâm một lúc. Mỗi ngày: sáng, trưa, tối đều ngâm; giữ nước thuốc, 2 - 3 ngày sau lại đun sôi và dùng tiếp tục.

14. Chủ trị viêm bàng quang: Kim ngân hoa 9g, Thạch vi 10g, Bạch mao căn 30g, Xa tiền thảo 15g; sắc nước; chia làm 2 lần uống.

15. Chủ trị viêm mủ bộ phận sâu: Kim ngân hoa, Dã Cúc hoa, Mã lan, Hải Kim sa đằng, Đại thanh diệp, mỗi vị thuốc 30g, Cam thảo 5g: sắc nước chia 3 lần uống; mỗi ngày 1 thang.

16. Chủ trị viêm tắc mạch, thời kỳ đầu, chỗ ngón chân tía tím, đau, chưa bị loét: Kim ngân hoa 20g, Đương quy 15g, Mao đông thanh 30g, Ngưu tất 10g, Cam thảo 3g; sắc nước thuốc, chia 3 lần uống lúc đói, mỗi ngày 1 thang.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.