Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - Củ Mài (Hoài Sơn)

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - Củ Mài (Hoài Sơn)

a. Thành phần và tác dụng

Củ mài còn gọi là sơn dược, chánh hoài, khoai mài, có mùi vị đặc trưng, không những là thức ăn quý mà còn là loại thuốc bổ. Khoa học hiện đại đã phân tích, trong củ mài giàu tinh bột, protein, axix amin tinh khiết, chất béo, muối vô cơ và các loại vitamin B₁, B₂, axit nicotin, axit chống hoại huyết, caroten, ngoài ra còn chứa nhiều xenlulô và chất kết dính.
Củ mài cung cấp cho cơ thể nhiều protein kết dính, là chất hỗn hợp protein nhiều đường, có tác dụng tăng cường sức khoẻ, để phòng chất béo lắng đọng trong hệ thống tim, huyết quản, giữ cho huyết quản đàn hồi, phòng sớm xơ cứng động mạch, giảm bớt chất béo đọng dưới da, tránh được béo phì.
Có thể ngăn thoái hoá tổ chức gan, thận, đề phòng phát sinh do chất keo gây nên, giữ cho đường tiêu hoá, hô hấp và các khớp được bôi trơn.
Chất đường dính kết sau khi kết hợp với muối vô cơ sẽ tạo thành xương, làm cho xương có tính đàn hồi nhất định.
Trong củ mài có chứa men tiêu hoá sẽ thúc đẩy việc phân giải protein và tinh bột. Vì vậy củ mài là loại thực phẩm bổ dưỡng cho những người bị suy nhược do nhiều thứ bệnh như: tinh thần mệt mỏi, ăn không ngon, tiêu hoá kém, ho lao, di tinh, ra mồ hôi trộm, bệnh tiểu đường.

b. Bài thuốc phối hợp

- Viêm phế quản mạn tính: Dùng củ mài, mía ép lấy nước uống hoặc giã nát chưng cách thuỷ để uống.
- Tiêu chảy mạn tính: Củ mài đun chín trộn với bột than bánh mì hấp để ăn.
- Trẻ tiêu chảy: Dùng củ mài đun với nước uống.
- Bệnh tiểu đường: Dùng củ mài nấu chín để ăn; hoặc củ mài sắc với hoàng liên để uống; hoặc củ mài sắc với phấn boa để uống.
- Viêm vú: Dùng củ mài sống giã nát trộn với đường trắng đắp lên chỗ viêm.
- Các loại nhọt độc: Dùng củ mài sống giã nát đắp lên chỗ đau, hoặc dùng một ít củ mài và hạt thầu dầu giã nát đắp vào chỗ đau.
- Ung nhọt: Dùng củ mài giã nát trộn với óc cá tươi làm thành bột nhão đắp vào chỗ đau.
- Hoại tử do giá lạnh: Dùng củ mài giã nát đắp vào chỗ đau.
- Huyết hư váng đầu, đau đầu, suy nhược thần kinh: Dùng củ mài, kỷ tử, óc lợn hầm với nước để ăn.
- Tỷ hư vị nhược, ăn ít, trẻ con cam tích: Dùng củ mài, rang đậu côve, gạo tẻ nấu thành cháo để ăn.
- Ho lao phổi, tì vị hư nhược do bệnh tiểu đường: Dùng củ mài, tuỷ lợn, đun với nước cho thêm muối để ăn.
- Nam giới thận hư, tinh lạnh không con, tì hư ăn kém: Dùng củ mài luộc lên bóc vỏ, cho đường trắng và hồ tiêu làm thành nhân bánh, dùng bột gạo nếp hoặc lạc nấu thành canh ăn. Không cho đường cũng có thể chữa bệnh tiểu đường.
- Thận hư, tiêu khát, tiểu dắt, di tinh: Dùng củ mài luộc lên bỏ vỏ trộn với bột mì làm thành bánh, bên trên rắc nhân hạt đào, quả thập cẩm cho vào nồi hấp, sau đó cho một ít mật ong lên trên để ăn.
- Trẻ con thực tích, cam tích: Dùng củ mài luộc chín bỏ vỏ trộn với đường trắng để ăn; hoặc lấy gạo tẻ nấu lẫn với củ mài khô thành cơm ăn.
- Trẻ con đái dầm: Dùng củ mài bỏ vỏ, dằm nát cho thêm sơn thù nhục, hấp cách thuỷ rồi trộn đường trắng để ăn.
- Thiếu máu do trở ngại tái sinh: Dùng củ mài, đại táo, tử kinh bì sắc với nước uống.
- Đầy bụng không muốn ăn uống: Dùng củ mài sao chín 1/2 nghiền thành bột uống với nước cơm.
- Bổ hư tổn, lợi nhan sắc: Củ mài khô tán thành bột cho thêm đầu ăn đun lên khi có mùi thơm, cho thêm rượu, sắc uống khi đói.

Trích nguồn từ sách: "NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA"
của Đức Minh do NXB Hà Nội ấn hành



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.