Dùng rễ, lá phơi khô của cây Thường Sơn Dichroa febrifuga Lour. Họ Thường sơn Saxigrafaceae.
Tính vị: vị đắng, Lính hàn, hơi có độc.
Công năng chủ trị:
- Làm cho đàm nôn ra và làm cho hết bí tích, bứt rứt dùng thường sơn 20g, cam thao 6g, sắc uống.
- Sát khuẩn, chữa sốt rét: thường sơn, thảo quả, binh lang, thanh bì, hậu phác, trần bì mỗi thứ 13g, cam thảo 4g, hoặc lá cây cam thìa 40g, (tẩm rượu sao vàng), lá thường sơn 20g (tẩm nước gạo 2 đêm, ngày lấy ra phơi khô, tẩm rượu).
Liều dùng: 6 - 12g.
Kiêng kỵ: thể hư dùng phải thận trọng, phụ nữ có thai không nên dùng
Chú ý:
- Tác dụng dược lý: chất alcaloid A, B (là a, b, dichroin C₁₆H₁₉O₃N₃) của thường sơn đều có tác dụng chống sốt rét trên gà giống tác dụng của quinin. Chất B tác dụng gấp quinin 89 - 122 lần. Alcaloid toàn phần có tác dụng hạ huyết áp giải nhiệt, làm tăng dung tích của tỳ vị. Chất A, B, C làm gây nôn chim bồ câu, với liều 0,2 - 2mg, đối với tim thỏ cô lập, lúc đầu hưng phấn nhẹ, sau đó bị ức chế. Liều 0,5ml tương đương 0,25g nguyên liệu/1kg thỏ, có tác dụng ha sốt.
- Tác dụng kháng khuẩn: ở thể nội và thể ngoại, thường sơn đều tác dụng ức chế với amíp, dịch ngâm, ức chế virus cúm PR₃, alcaloid toàn phần có tác dụng ức chế ung thư gan, ung thư màng bụng.
- Dùng thường sơn thường có phản ứng phụ là nôn. Nên trích rượu gừng để hạn chế kích thích gây nôn.
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Xem thêm: Chữa Cảm Sốt - Thường Sơn
Nhận xét
Đăng nhận xét