Dùng củ của cây hoàng tinh – Polygonatum kingianum Coll et Hemsl. Họ Hành – Liliaceae.
Tính vị: vị ngọt, tính bình.
Công năng chủ trị:
- Nhuận phế, sinh tân dịch: dùng cho các trường hợp phế háo, các chứng ho khan, bệnh ho lao. Bệnh lao ở thời kỳ đầu có thể dùng hoàng tinh 20g, sa sâm 8g, ý dĩ 12g, dưới dạng thuốc sắc. Khi đã ho ra máu: hoàng tinh, bách bộ, bạch cập mỗi thứ 250g, tán bột mịn, ngày uống 3 lần mỗi lần 8g. Đối với bệnh tiêu khát, tân dịch hao tổn nặng: dùng hoàng tinh phối hợp với sinh địa, hoài sơn, tang diệp.
- Bổ tỳ, kiện vị: dùng trong các bệnh mà tỳ vị hư yếu, tân dịch thiếu.
- Bổ máu: dùng trong các bệnh thiếu máu, các trường hợp sau ốm dậy da còn xanh xao, gầy còm, hoặc dùng cho người già huyết dịch khô kiệt, có thể phối hợp hoàng tinh, câu kỷ tử, thục địa, hà thủ ô.
Liều dùng: 8 – 16g.
Chú ý:
- Sau khi thu hoạch, hoàng tinh cần phải nấu nhiều lần để loại các chất kích thích, các chất gây tê ngứa và sau đó cần qua chế biến để có hoàng tinh màu đen như thục địa. Còn dùng cây ngọc trúc (hoàng tinh ngọc trúc) Polygonatum officinale, cùng họ làm thuốc bổ âm, cơ thể suy nhược ra nhiều mồ hôi.
- Tác dụng dược lý: hoàng tinh có tác dụng hạ huyết áp trên động vật thí nghiệm đã gây mê. Có tác dụng ức chế đường huyết quá cao; tiêm liều lớn làm tê liệt trung khu thần kinh.
- Tác dụng kháng khuẩn: hoàng tinh có tác dụng ức chế một số vi khuẩn.
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Xem thêm: THUỐC BỔ, THUỐC BỒI DƯỠNG - Hoàng Tinh
Nhận xét
Đăng nhận xét