Là mai và yếm của con rùa – Chinemys (Geoclemys) revessii (Qray). Họ Rùa Testudinidae, thường dùng rùa núi (sơn quy), có nơi dùng rùa nước (thuỷ quy).
Tính vị: vị mặn, ngọt, tính bình.
Công năng chủ trị:
- Tư âm tiềm dương, giáng hoả: trị thận âm kém mà sinh ho lâu ngày; sốt nóng âm ỉ trong xương. Còn dùng để bổ xương cốt, ra mồ hôi trộm, di tinh, lưng cốt đau mỏi. Dùng cao quy bản 100g, hoài sơn (sao) 120g, phá cố chỉ (sao rượu) 80g, vỏ rễ cây bồng trang (sao) 60g, thục địa 160g, hạt tơ hồng sao (sao) 80g, khiếm thực 60g, rau má 80g, ngày dùng 20g, hoặc phối hợp với hoàng bá, thục địa, tri mẫu.
- Sinh tân dịch: dùng trong các trường hợp tân dịch hao tổn, phối hợp với mẫu lệ, miết giáp, sinh địa.
- Ích khí: dùng bổ sau khi ốm dậy, phối hợp với đẳng sâm, bạch truật, đương quy, thục địa…
- Cố tinh chỉ huyết: dùng để trị các bệnh âm hư huyết nhiệt dẫn đến bệnh tăng đường huyết, thường phối hợp với mẫu đơn bì, sinh địa.
- Sát khuẩn: trị sốt rét lâu ngày không khỏi, trị lỵ, kinh niên. Ngoài ra còn dùng với các bệnh trĩ.
Liều dùng: 16 – 40g.
Kiêng kỵ: những người âm hư không có nhiệt, phụ nữ có thai không nên dùng, khi dùng có thể trích giấm, rượu hoặc mỡ lợn.
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Nhận xét
Đăng nhận xét