Là hạt chín phơi khô của cây ba đậu – Croton tiglium L. Họ Thầu dầu – Euphorbiaceae. Y học cổ truyền thường dùng ba đậu sương, đem ba đậu ép bỏ dầu, lấy bã.
Tính vị: vị cay, tính nhiệt, rất độc.
Công năng chủ trị:
- Làm ruột ấm lên (ôn tràng), thông đại tiện: dùng khi thức ăn bị tích trệ trong ruột do tỳ vận hoá không tốt, đại tiện bí táo. Có thể dùng ba đậu sương, gừng tươi, đại hoàng lượng bằng nhau, nghiền nhỏ, làm viên. Mỗi lần uống 0,5–1g.
- Trục thuỷ tiêu thũng: dùng thích hợp khi bụng phù nước, phình trướng to. Dùng ba đậu, hạnh nhân lượng bằng nhau, mỗi lần 0,4–0,8g.
Liều dùng: 0,02 – 0,5g.
Kiêng kỵ: vị thuốc có tính độc, những người ở thể hư nhược, phụ nữ có thai không nên dùng. Trong trường hợp uống thuốc rồi mà vẫn không gây tả mạnh thì dùng nước cháo nóng mà uống thêm. Nếu gây tả mạnh, không cầm lại được thì dùng nước cháo lạnh mà uống.
Chú ý:
- Nếu bị độc thì dùng đậu đen, đậu xanh hoặc hoàng liên với đậu xanh sắc uống để giải độc.
- Tác dụng dược lý: dầu và nhựa ba đậu, sau khi uống vào trong ruột nó có tác dụng với dịch kiềm. Tách ra dạng acid (acid crotonic) và chất phorbol, có khả năng kích thích mạnh thành ruột dẫn đến nhu động ruột tăng mạnh và gây đi ỉa lỏng. Dầu ba đậu và chất phorbol có thể xúc tiến tạo ra chất gây ung thư (dầu ba đậu không có tác dụng gây ung thư, nhưng nếu gặp chất uretan thì có thể dẫn đến ung thư vú và da).Chất crotin trong ba đậu có tác dụng làm tan hồng cầu, làm cho tế bào cục bộ bị hoại tử dẫn đến phát đỏ, phồng và viêm tấy.
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Xem thêm: Nhuận Tràng và Tẩy - Ba Đậu
Nhận xét
Đăng nhận xét