Chương I
SƠ LƯỢC VỀ SỰ HÌNH THÀNH
NỀN Y HỌC CỔ TRUYÊN VIỆT NAM
I. PHẦN GIỚI THIỆU
Dân tộc ta có một quá trình lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước rất vẻ vang, truyền thống đó được phản ảnh qua việc chỉnh phục thiên nhiên và cải tạo xã hội, chiến thắng ngoại xâm, đó cũng là nguồn động viên to lớn cho các thế hệ con người Việt Nam nhất là trong giai đoạn đấu tranh xây dựng đất nước, tiến lên con đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền y học cổ truyền của chúng ta.
Nền y học cổ truyền được bắt nguồn từ một nền y học đần gian phong phú. Thông qua thực tiễn nhiều đời, các kinh nghiệm được đúc kết thành lý luận phong phú. Mặt khác các lý luận triết học duy vật cổ đại (thuyết âm dương, ngũ hành...) lại được các nhà y học cổ phương Đông vận dụng vào y học trong mọi lĩnh vực từ phòng bệnh đến chẩn trị, bào chế thuốc men, làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận của y học cổ truyền. Từ đó y học cổ truyền có một nên tảng vừng chắc dựa trên hệ thống lý luận đã được ghi chép thành văn bản và cứ như vậy nền y học dân gian Việt Nam được bổ sung thêm, dần dần làm phong phú cho y học cổ truyền. Do vậy có thể khẳng định rằng đây là một nền y học của dân, do dân và vì dân. Nó có tính chất quần chúng rộng rãi, tính sáng tạo và tính nhân đạo sấu sắc. Nó tiếp thu tinh hoa của nền Y học nước ngoài, trong đó công đầu phải kể đến Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông người đã có công Việt Nam hoá nền y học Trung Hoa vào Việt Nam. Chính ông là một tài năng đã đúc kết và sáng tạo cái di sản quý báu của chính nền y học cổ truyển Việt Nam. Nền y học cổ truyền Việt Nam dưới ánh sáng của các Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam và được sự chỉ giáo quan tâm của Bác Hồ vĩ đại đã ngày càng được phát triển.
II. TÌNH HÌNH Y HỌC CỔ TRUYỀN THỜI THƯỢNG CỔ
Căn cứ vào những di chỉ được khảo sát qua các hang người vượn ở Thầm Khuyên, Thầm Hai (Lạng Sơn), Thầm Ồm (Nghệ An) những di tích sơ kỳ đá cũ ở núi Đọ (Thanh Hoá)... lưu vực sông Đồng Nai chứng minh rằng trên lãnh thổ Việt Nam con người đã từng sinh sống cách đây hàng chục vạn năm. Việc chứng minh quá trình phát triển thành người hiện đại ở Việt Nam diễn ra khá sớm. Đã chứng minh được rằng, người hiện đại (Homa-Sapiens) ở Hang Hùm (Hoàng Liên Sơn), Kéo Lèng (Lạng Sơn), hang Thung Lang (Hà Nam Ninh).
Từ thời Hồng Bàng và các vua Hùng 2879-257 trước công nguyên, vào trước những năm 1110 trước công nguyên, đã có tục ăn trầu (nhai trầu với cau, vôi, và rễ vỏ) đồng thời có tục lệ nhuộm răng đen bằng phèn (cánh kiến đỏ, vỏ lựu, ngũ bội tử). Phong tục ăn trầu, nhuộm răng với mục đích bảo vệ răng miệng, làm chắc răng, thơm miệng, tránh sâu răng, lại làm nở nang, ấm áp cơ mặt, làm da mặt hồng hào tươi tắn.
Việc dùng gừng, tỏi, ớt làm gia vị ăn hàng ngày vừa giúp cho việc tiêu hoá tốt, lại giúp cho việc phòng các bệnh đường ruột. Người dân miền núi có tục ăn ý dĩ và uống nước củ riềng để chống ẩm thấp và phòng chống sốt rét rừng.
Cuối thế kỷ III trước công nguyên ở Nam Việt giao chỉ đã phát hiện các cây thuốc như sắn dây, gừng, riềng, đậu khấu, ích trí, lá lốt, sả, quế, quan âm, vông nem...
Năm 218 Tần Vẽ Đế dùng hoa Đậu khấu phá khí, tiêu đờm, tăng tửu lượng rất hiệu nghiệm; hoa Sơn khương trị khí lạnh, sản xuất ở Cửu Chân Giao chỉ. Ông An Kỳ Sinh đã lấy xương bồ 9 đốt ở núi Lạng Giản (Đông Triều) phía đông thành Phiên Ngung (Cổ Loa) uống rồi thành tiên. Hạp đằng (bàm bàm) còn gọi là Đậu voi dùng giải các loại thuốc độc, Tân lang (cau) ăn với trầu hồng hào, hạ khí, tiêu cơm. Sau đó là hàng loạt các loại vị thuốc khác đã được phát hiện và sử dụng như Mộc hương, An tức hương, Hương phụ, Giáng chân hương, Quế, Tê giác. Từ thế kỷ III trước công nguyên nhân dân nước Âu Lạc (tên nước ta thời đó) đã biết nấu rượu để uống làm thuốc.
III. TÌNH HÌNH Y HỌC CỔ TRUYỀN TỪ 179 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN DẾN 938 SAU CÔNG NGUYÊN
Từ 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc đã bị sát nhập với nước Việt Nam của Triệu Đà, từ 111 trước công nguyên cả nước Việt Nam đã bị nhà Hán thôn tính. Từ đó nước ta đặt dưới quyền đô hộ của các triểu đại Hán, Ngụy, Tần, Tống, Tề, Tùy, Đường. Đến năm 938 sau công nguyên nước ta mới giành được độc lập. Trong thời gian này người Trung Quốc đã lấy nhiều vị thuốc của chúng ta đem về nước như Ý dĩ, Sử quân tử, Hoắc hương, Đậu khấu, Sắn dây, Sả... đồng thời nhiều thầy thuốc Trung Quốc cũng sang Việt Nam để hành nghề chữa bệnh. Năm 187-226 Đổng Phụng đã sang chữa bệnh cho Sí Nhiếp, năm 479-501 Lâm Thắng sang Việt Nam lấy thuốc ở Việt Nam đã chữa khỏi bệnh thấp, bụng trướng của vợ Âm Kiên. Thân Quang Tôn đã chữa bệnh buốt óc của Tôn Trọng Ngạc bằng Gừng khô, Hồ tiêu. Qua những sự kiện trên chứng tỏ rằng sự giao lưu y học cổ truyền giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng đã có từ lầu.
IV. Y HỌC CỔ TRUYỀN DƯỚI CÁC TRIỀU NGÔ, ĐINH, LÊ, LÝ 938-1224
Năm 938 nền độc lập của nhà nước phong kiến Việt Nam được thiết lập mở đầu là nhà Ngô, tiếp theo đó là nhà Đinh, Lê, Lý. Song dưới các triều đại này chưa từng thấy tài liệu ghi chép về tổ chức y tế.
Đến nhà Lý, nước ta có nhiều thầy thuốc chuyên nghiệp. Ở triểu đình đã có Ty thái y. Trong đó có ngự y chuyên chăm góc sức khoẻ cho vua. Năm 1136 vua Lý Thần Tông phát bệnh điên cuồng mình mọc lông dài, miệng gào thét đã được Minh Không thiền sư chữa khỏi bằng cách tắm nước bồ hòn.
V. Y HỌC CỔ TRUYỀN DƯỚI TRIỀU NHÀ TRẤN (1225-1399)
Nho học phát triển mạnh, về y học có Ty thái y sau nâng lên thành Viện thái y với chức năng chăm lo sức khoẻ cho vua quan trong triên đình, đồng thời có nhiệm vụ quản lý y tế trong cả nước. Khi có bệnh phát, triều đình đã có chủ trương phát thuốc cho dân để chữa bệnh. Năm 1362, vua Trần Dụ Tông đã cấp phát tiền gạo và thuốc viên Hồng ngọc sương hoàn để chống dịch cho dân ở hạt Tam Đới (Phú Thọ) và phủ Thiên Tường (Hà Nam Ninh). Từ năm 1261 nhà Trần đã mở khoá thì để tuyển lương y vào làm việc ở Viện thái y. Viện thái y đã chỉ đạo việc đào lạo thầy thuốc và có kế hoạch thu trữ cấp phát dược liệu, phục vụ chữa bệnh cho vua quan và quân đội. Viện thái y đã thường xuyên tổ chức đi hái thuốc mọc hoang ở núi An Tử, Đông Triều.
Lúc này Phạm Ngũ Lão phụ trách trồng thuốc ở Phả Lại (vườn thuốc Vạn An và Dược Sơn xã Hưng Đạo. Chí Linh ngày nay) để tự túc thuốc men không phụ thuộc vào thuốc Trung Quốc (vì lúc này có sự bất hòa với phong kiến Nguyên Mông). Như vậy việc trồng thuốc và thu hái thuốc mọc hoang; ông cha ta cũng đã làm từ sớm. Trong thời này Tuệ Tĩnh một nhà sư là một lương y cũng đã gây dựng được phong trào trồng thuốc ở đền chùa, vườn nhà để chữa bệnh cho dân. Cũng từ đó xuất hiện ý thức sâu đậm trồng cây thuốc, có khi cả làng như Đại Yên (Ba Đình - Hà Nội), Nghĩa Trai (Văn Lâm - Hải Hưng) mà ngày nay vẫn còn truyền thống. Song song với việc dùng thuốc chữa bệnh bằng châm cứu cũng được tin dùng hơn trước (Trâu Canh con Trâu Tôn thầy thuốc của quân Nguyên Mông bị bắt và xin ở lại Việt Nam làm thuốc đã chữa khỏi cho Trần Hạo (Trấn Dụ Tông lúc lên 4) bị chết đuối sống lại).
Dưới thời nhà Trần xuất hiện một số thầy thuốc tiêu biểu:
- Phạm Công Bân (Cẩm Bình - Hải Dương) giữ chức Thái y lệnh, từ 1278-1314 ngoài việc chăm sóc sức khoẻ cho dân, ông còn bỏ tiền riêng mua sắm thuốc men dựng nhà nuôi dưỡng bệnh nhân nghèo bị tàn tật, hoặc trẻ mồ côi cơ nhỡ.
- Tuệ Tĩnh còn gọi là Nguyễn Bá Tĩnh đã để xuất "thuốc Nam Việt chữa người Nam Việt" trồng thuốc chữa bệnh tại chỗ để chữa bệnh kịp thời, ông đã biên soạn cuốn Nam dược thần hiệu với 499 vị thuốc và các phương thuốc nam chữa 184 loại bệnh. Quyển sách của ông đã được Hoà thượng bản lai biên tập, bổ sung và in khắc lại năm 1761. Quyển Nam dược chính bản (có tựa của chúa Trịnh 1717) gồm hai quyển Nam dược quốc ngũ phú gồm 590 vị thuốc và Trực giải chỉ nam dược tính phú gồm 220 vị. Sau này đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư.
Qua một số tác phẩm của Tuệ Tĩnh ta thấy nổi bật lên đạo đức và đường hướng y học của ông. Trong thời kỳ này nhiều vị thuốc được phát hiện như Hoàng nàn, Hoàng đằng, Hoàng lực, Độc lực, Tân lang, Lá đơn đỏ, Vỏ lựu...
Đồng thời Tuệ Tĩnh đã bước đầu chia bệnh ra 10 khoa.
VI. Y HỌC THỜI NHÀ HỒ VÀ THỜI THUỘC MINH (1400-1427)
Chủ trương chữa bệnh rộng rãi cho dân. Lập Quảng tế thư, tổ chức các cơ sở chữa bệnh ở địa phương. Trong thời kỳ này có Nguyễn Đại Năng giữ chức tá nhị ở Viên thái y, ông đã biên soạn Châm cứu tiệp hiệu diễn ca, phát hiện nhiều huyệt mới để chữa nhiêu bệnh hiểm nghèo (sốt rét, động kinh) ngoài ra còn có Vũ Toàn Trai (Hải Hưng), Lý Công Tuấn (Tiên Sơn, Hà Bắc) đều là những người biên soạn các tác phẩm châm cứu giá trị.
VII. Y HỌC DƯỚI TRIỀU LÊ (1428-1788)
Dưới triều Lê, Lê Nhân Tông chú trọng phát triển nền y học cổ truyền, lúc này đã có quan hệ trao đổi sản vật lấy thuốc Bắc của Trung Quốc. Nhà Lê quan tâm đến sức khoẻ của nhân dân.
- Luật Hồng Đức đã đưa ra quy chế nghề y trừng phạt những thầy thuốc vụ lợi, cố tình chữa bệnh dây dưa hoặc chữa khoán, có quy chế vệ sinh xã hội, nghiêm trị những người chế và bán thuốc độc. Cuốn “Bảo sinh diên thọ toàn yếu” hướng dẫn giữ vệ sinh, luyện tập vận động thân thể để tăng tuổi thọ. Về tổ chức y tế ở triển đình có Viện thái y đứng đầu là Đại sứ, giúp việc có chánh phó ngự y chữa bệnh cho vua. Chánh phó lương y để chữa bệnh cho hoàng gia và quan lại, ở sáu viện có các phòng thuốc do các Viên tư dược và Trưởng dược phụ trách giữ kho và phân phối cấp phát. Ở Viện thái y còn có khoa huấn luyện y học, ở các tỉnh có Tế sinh đường có các khán chẩn để khám bệnh và chức sứ trông coi kho thuốc và cấp phát thuốc. Các chánh phó lương y trông coi sức khoẻ cho các tướng sĩ trong quân đội.
Trong thời kỳ này có các lương y nổi tiếng như:
+ Nguyễn Trực nghiên cứu về bệnh trẻ em bằng xoa bóp, bấm huyệt, đốt bấc, có các phương pháp trị bệnh sởi, đậu mùa.
+ Chu Doãn Văn (Thanh Trì) có các y án trị bệnh ngoại cảm và biên soạn 4 thiên lý luân cơ bản rất súc tích.
+ Hoàng Đôn Hoà (Thanh Oai - Hà Tây) đã thành công trong việc dùng thuốc hoàn chế sẵn và dược liệu trồng tại chỗ để chữa bệnh đặc biệt là bệnh sốt rét và thổ tả.
Ngoài ra còn hàng loạt các danh y khác như Nguyễn Đạo An, Lê Đức Vong, Đào Công Chính, Tạ Chất Phác, Trần Hải Yến... đã có nhiều công lao đóng góp cho nền y học cổ truyền. Đặc biệt trong thời kỳ này, nổi bật lên như một ngôi sao sáng trong nền y học cổ truyền Việt Nam đó là danh y Lê Hữu Trác (1720-1791) Hải Thượng Lãn Ông (Hải Hưng). Ông đã để lại một pho kinh nghiệm quý báu đúc rút qua nhiều thế hệ của các nhà y học cổ truyền trong và ngoài nước (Trung Quốc) với bộ sách khổng lồ Lãn Ông tâm lĩnh sau đổi thành Hải thượng y tông tâm lĩnh 28 tập, 66 quyển để phổ cập đào tạo thầy thuốc, lưu truyền cho hậu thế. Để ghi nhớ công ơn ông, Ngành Y tế Việt Nam đã lấy ngày mất của ông 15-1 (âm lịch) làm ngày truyền thống của những người làm công tác YHCT Việt Nam.
VIII. Y HỌC CỔ TRUYỀN DƯỚI TRIỀU TÂY SƠN (1789-1802)
Kết quả của sự chia cắt đất nước lâu dài (Trịnh Nguyễn phân tranh) làm nhân dân vô cùng khốn khổ, bênh tật phát triển, thái y viện đã tăng cường việc chống dịch ở các địa phương. Đã thành lập Nam dược cục; mài các lão y về nghiên cứu thuốc Nam, đứng đầu là lương y Nguyễn Hoành (Thanh Hoá) ông đã biên soạn 500 vị thuốc cỏ cây ở địa phương và 130 vị về các loại chim, cá, kim, thạch, đất, nước.
IX. Y HỌC CỔ TRUYỀN DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1905)
Nhà Nguyễn dựa vào Pháp lập các Tế sinh đường ở các tỉnh đổi thành Ty lương y. Những người tàn tật nghèo khổ được nuôi dưỡng ở Dưỡng tế sự ở các tỉnh. Viện thái y có quy định cụ thể các chức phục vụ bào chế, kiểm tra, đóng gói, sắc thuốc... 1856 Tự Đức có mở trường dạy thuốc ở Huế. Nhà Nguyễn có đặt quy chế riêng về nghề y, trừng phạt các thầy thuốc chữa sai gây tử vong hoặc cố tình gây nguy hiểm cho người bệnh. Luật Gia Long quy định trừng phạt những vụ chữa bệnh trái phép gây chết người.
X. Y HỌC CỔ TRUYỀN DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC (1884-1945)
Sau khi chiếm được nước ta, người Pháp tổ chức y tế nước ta theo cách tây y. Có các nhà thương ở thành phố, bệnh xá ở các tỉnh lỵ, lúc đầu đều do thầy thuốc nhà binh phụ trách. Từ 1905 các bệnh viện, bệnh xá do giám đốc y tế của 3 kỳ lãnh đạo dưới quyền thanh tra y tế Đông Dương. Các Ty lương y ở Nam triều bị giải tán. Y học cổ truyền không còn nằm trong hệ thống y tế nhà nước. Tuy vây những người dân nghèo đa phần ở nông thôn và miền núi vẫn phải chữa bệnh bằng y học cổ truyền. Ý học cổ truyền bị thực dân Pháp chèn ép đè nén. Pháp hạn chế số người hành nghề y học cổ truyền, ở Nam Bộ cấp thẻ môn bài không quá 500 người hành nghề y học cổ truyền. Mặc dù vậy y học cổ truyền vẫn cố gắng tìm cách hoạt động để giữ gìn vốn quý của cha ông. Ví dụ Hội y học Trung Kỳ thành lập ngày 14/9/1936, đã phát hành 46 số tạp chí y học.
XI. Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8/1945 ĐẾN NAY
Sau khi giành được chính quyền Bác Hồ và Đảng ta đã quan tâm đến nền y học cổ truyền. Trong thư gửi cán bộ y tế 27/9/1955 Bác Hồ có viết “Y học phải dựa trên nguyên tác khoa học, dân tộc, đại chúng. Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc Ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vị y học các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu và phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây”.
Những chỉ thị 101 TTg ngày 15/3/1961; 21 CP ngày 19/2/1967 và 26 CP ngày 19/10/1978 đã quy định “Trên cơ sở khoa học thừa kế và phát huy những kinh nghiệm tốt của đông y và kết hợp với tây y tăng cường khả năng phòng bênh chữa bệnh và tiến tới xây dựng nền y học Việt Nam”
Điều 49 chương III, hiến pháp nước CHXHCNVN có ghi “Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo vệ sức khoẻ nhân dân trên cơ sở kết hợp y học, dược học hiện đại với y học cổ truyền”
- 4/11/1955 Bộ y tế có công văn 9126 YD/PBCB hướng dẫn các địa phương khai thác và sử dụng thuốc nam.
- 12/4/1956 Bộ y tế tổ chức Phòng đông y trong Vụ chữa bệnh chuyên trách nghiền cứu đông y.
- Theo nghị định số 339 NV/DC ngày 3/6/1957 của Bộ nội vụ, Hội đông y Việt Nam (nay là Hội y học cổ truyền Việt Nam) được phép thành lập với mục đích đoàn kết các người làm nghề và nghiên cứu đông y, đông dược và phối hợp với Bộ y tế trong công tác lãnh đạo giới đông y về tư tưởng và nghiệp vụ.
- Vụ đông y được thành lập giúp đỡ Bộ y tế lãnh đạo công tác đông y trong toàn Ngành y tế. Đồng thời theo nghị định số 238/TTg cùng ngày của Phủ thủ tướng Viện nghiên cứu đông y (nay là Viện y học cổ truyền Việt Nam) được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng lâm sàng các phương pháp chấn đoán bệnh, trị bệnh bằng thuốc và không dùng thuốc nắn bó gãy xương bằng phương pháp đông y, dùng phương pháp khoa học hiện đại chứng minh so sánh.
- Có nhiều vườn thuốc mẫu về y học cổ truyền được thành lập từ Trung ương (Viện, Trường đại học dược), và các địa phương đến các xã với mục đích giúp cho sinh viên, học viên học tập và nhân dân các địa phương biết các cây thuốc để chữa bệnh.
Đến năm 1988 các tỉnh thành phố đều có bệnh viện y học dân tộc, 259 khoa y học dân tộc trong các bệnh viện đa khoa cả nước. Có hơn 4000 cơ sở y tế dùng thuốc nam. Riêng Trường đại học dược đã đào tạo được hơn 200 dược sỹ chuyên khoa dược liệu; các trường trung cấp đào tạo hơn 4000 y sĩ y học cổ truyền. Hiện nay đang tiếp tục đào tạo lại và đào tạo sau đại học về dược học cổ truyền.
Tóm lại dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với phương châm đúng đắn của Bộ y tế chúng ta sẽ vươn tới một nền y tế Việt Nam có tiền đồ rực rỡ. Điều đó càng được thể hiện rẽ nét trong Nghị quyết lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, các Nghị quyết hội nghị lần thứ 3, Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII; Nghị quyết số 37/CP ngày 20/6/1896 của Chính phủ, về “Định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trong thời gian 1996-2000 và Chính sách quốc gia về thuốc của Việt Nam. Trên cơ sở đó thừa hưởng vốn quý của nền y học cổ truyền lâu đời của dân tộc ta với một sự kết hợp khéo léo thích hợp thành tựu y học hiện đại của thế giới, chúng ta sẽ có một nền y tế thật độc đáo, thật Việt Nam. Nhất là trong giai đoạn hiên nay Nhà nước đã có Chính sách thuốc quốc gia về y học cổ truyền và chiến lược hiện đại hoá nền y học cổ truyển Việt Nam. Đó là những điều kiện tiếp sức, làm đà cho y học cổ truyền Việt Nam phát triển trong thế kỷ 21.
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Nhận xét
Đăng nhận xét