Cau (Areca catechu L.) thuộc họ Cau (Arecaceae).
Mô tả: Cau là loài cây trồng quen thuộc đối với chúng ta. Cây cao tới 15-20m, có thân cột, mang chùm lá ở ngọn. Lá có bẹ dày, phiến xẻ lông chim. Cụm hoa là bông mo, phân nhánh có mo sớm rụng. Trong cụm hoa, hoa đực thường ở trên, hoa cái thường ở dưới, hoa đực có mùi thơm. Quả hạch hình trứng, chứa một hạt tròn có một nhũ xếp cuốn, khi già màu nâu nhạt, vị chát.
Bộ phận dùng: Hạt (Bình lang, Tân lang), vỏ quả (Đại phúc bì).
Nơi sống và thu hái: Cau được trồng khắp nơi vùng đồng bằng để lấy quả ăn trầu. Trồng bằng quả, sau 5 - 6 năm mới thu hoạch. Chọn quả già, bóc lấy vỏ, rồi chẻ quả cau lấy hạt đi phơi khô.
Hoạt chất và tác dụng: Trong hạt Cau có tanin, chất mỡ, chất đường, muối vô cơ. Hoạt chất chính là ancaloit: arecolin, arecaidin, guvaxin, guvacelin. Arecolin là chất cường đối giao cảm, làm tăng sự tiết dịch, làm co đồng tử. Với liều thấp nó làm kích thích thần kinh, với liều cao làm liệt thần kinh. Nó làm tăng nhu động ruột, làm tê bại cơ sán, làm liệt thần kinh sán.
Theo Y học cổ truyền, hạt Cau có vị chát, the, tính ấm, có tác dụng thông khí, rút nước, sát trùng, trừ giun sán. Vỏ quả Cau vị ngọt, hơi the, tính ấm, có tác dụng thông khí, rút nước, thông đại tiểu tràng (ruột) thường được dùng làm thuốc lợi tiểu, chữa bụng trướng đầy, ỉa chảy, phù thũng, cước khí.
Cách dùng: Hạt Cau dùng sắc uống với liều thấp (0,5 - lg/ngày), kích thích tiêu hóa, chữa viêm ruột. Với liều 4g, dùng chữa giun sán cho súc vật. Phối hợp với hạt Bí ngô, dùng chữa sán cho người (buổi sáng lúc đói ăn 40-100g hạt Bí ngô đã bóc vỏ, sau đó 2 giờ uống nước sắc hạt Cau với liều 68 - 80g đối với người lớn, uống độ 150ml hết 1 lần; nửa giờ sau, uống một liều thuốc tẩy, nằm nghi, đợi khi buồn đi ngoài thì đi vào một chậu nước ấm). Hạt Cau mài lấy bột phơi khô hòa với dầu vừng bôi cho trẻ em bị chốc đầu. Vỏ quả Cau thường dùng dưới dạng thuốc sắc. Ngày dùng 6-12g.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Xem thêm: TRỊ BỆNH BẰNG TRÁI CÂY - QUẢ CAU
Nhận xét
Đăng nhận xét