Gấc (Momordicu cachinchinensis (Lour.) Spreng.) thuộc họ Bầu bí(Cueurbitaceae).
Mô tả: Cây sống nhiều năm, leo cao nhờ tua cuốn ở nách lá. Lá mọc so le, phiến xẻ 3 - 5 thùy sâu. Hoa mọc riêng rẽ ở nách lá. Hoa đực có lá bắc to, tràng hoa màu vàng. Hoa cái có lá bắc nhỏ, phía dưới tràng có bầu sẽ phát triển thành quả. Quả to, có nhiều gai, khi chín có màu gạch đến đỏ thẫm. Hạt dẹt, cứng, màu đen. Mùa hoa quả: tháng 7 – 12.
Bộ phận dùng: Dầu Gấc, hạt Gấc (nom giống hình con Ba ba bằng gỗ nên có tên là Mộc miết tử), mành hạt Gấc (áo hạt) và rễ Giấc.
Nơi sống và thu hái: Gấc thường được trông nhiều lấy quả đổ xôi. Cây ưa đất tươi xốp, cao ráo, nhiều mùn, ẩm mát. Trồng bằng hạt hoặc bàng đoạn dây bánh tẻ vào tháng 2 – 3 âm lịch. Thu hoạch quả vào tháng 9 - 12. Bóc lấy lớp màng hạt để chế dầu, còn hạt đem phơi hay sấy khô. Rễ có thể thu hái quanh năm.
Hoạt chất và tác dụng: Màng hạt chứa một chất dầu màu đỏ, mà thành phần chủ yếu là beta-caroten và lycopen là những tiền sinh tố A, khi vào cơ thể sẽ biến thành vitamin A. Dầu Gấc dùng làm thuốc bồi đưỡng cơ thể (cho trẻ em hoặc phụ nữ đang có thai hoặc cho con bú), chữa bệnh khô mắt, dùng bôi, chóng lên da non và liền sẹo. Còn dùng chữa các bệnh viêm hậu môn và trực tràng có loét, vết bỏng đỡ được mùi hôi, chóng lên da non và liền sẹo, cao huyết áp, rối loạn thần kinh.
Nhân hạt chứa chất dầu màu vàng nhạt, các chất vô cơ, lipit, protit, gluxit, tanin, xenluloza và các men photphotaza, invetaza, peroxyđaza, thường được dùng trị mụn nhọt sưng tấy, tràng nhạc, lở loét, sưng vú, tắc tia sữa, chấn thương ứ huyết. Rễ Gấc có vị hơi đắng, mùi hôi, tính lạnh, thường dùng để chữa tê thấp, đau nhức gân xương, sưng tay chân, ngủ hay giật tay chân và đau lưng.
Cách dùng: Dâu Gấc dùng uống mỗi ngày 10 - 20 giọt chia làm 8 lần. Có thể phối hợp với bột than hạt Dành Dành làm thuốc chữa các loại bỏng (có thể chế thành mỡ dầu Gấc). Hạt dùng mài với nước, với Giấm hoặc giã nát trộn với rượi hoặc Giấm để bôi. Rễ Gấc sao vàng tán nhỏ sắc hoặc ngâm rượu uống, dùng riêng (ngày 6 -12g hoặc phối hợp với dây Đau xương, rễ Bưởi bung, củ Cốt khí, dây chìa vôi tía (mỗi vị 20g) thái nhỏ, sao vàng sắc uống hàng ngày, mỗi ngày một thang chia làm 3 lần.
Nhận xét
Đăng nhận xét