Sen (Nelumbo nucifera Gaertn.) thuộc họ Sen (Nelumbo = naceae).
Mô tả: Cây mọc ở nước, có thân rễ hình trụ (Ngó sen), từ đó mọc lên những lá có cuống dài. Hoa to, màu trắng hay đỏ hồng, có nhiều nhị (Tua sen) và những lá noãn rời; các lá noãn này về sau thành quả, gắn trên một đế hoa hình nón ngược (Gương sen). Mỗi quả chứa một hạt, trong hạt có chồi mầm (Tâm sen), gồm 4 lá non gập vào trong.
Bộ phận dùng: Lá sen, tua sen, tâm sen, ngó sen, hạt sen, gương sen.
Nơi sống và thu hái: Ở các tỉnh đồng bằng đều có trồng. Có nhiều ở Long An, Đồng Tháp, Cửu Long. Chủ yếu lấy hạt nấu chè, làm mứt và dùng nhiều bộ phận của cây để làm thuốc.
Hoạt chất và tác dụng: Lá Sen có nhiều ancaloit (nuciferin và 14 chất khác), vitamin C, các axit hữu cơ, tanin. Tâm sen có ancaloit: asparagin, nelumbin. Chất này có tính chất độc đối với tim, có tác dụng bình tình dục tính và an thần nhẹ. Tua Sen có tanin, Ngó Sen có asparagin, arginin, trigonenlin. Tâm Sen được dùng chữa dị mộng tinh, chữa tim nhanh, hồi hộp, hoảng hốt, mất ngủ. Gương Sen và lá Sen làm thuốc cầm máu (ỉa ra máu, đái ra máu, băng huyết), ứ huyết, bụng đau, đẻ nhau chưa ra. Tua Sen chữa băng huyết, thổ huyết, di mộng tinh. Ngó Sen cũng dùng cầm máu (ỉa ra máu, đái ra máu, nôn ra máu, chảy máu cam, đẻ xong xuất huyết, bạch đới). Hạt sen dùng làm thuốc bổ, cố tinh, chữa di tinh, thần kinh suy nhược.
Cách dùng: Ngày dùng 6 - 10g tâm Sen sắc hoặc hãm uống, có thể pha thêm đường. Liều dùng đối với gương Sen và lá Sen là 15 - 30g, tua Sen: 5 - 10g, ngó Sen: 6 - 12g. Hạt Sen có thể sắc nước, hàng ngày dùng 12 - 20g, hoặc dùng bột uống với nước trà.
Đơn thuốc chữa băng huyết sau khi sinh: Gương Sen 5 cái, Hương phụ 80g. Đốt cháy, tán nhỏ. Ngày uống 8 - 24g, chia 2 - 3 lần uống. Lá Sen cũng công dụng với gương Sen, dùng khi bệnh cấp, ngày 15 - 20g dưới dạng thuốc sắc.
Trích nguồn: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG của PTS. Võ Văn Chi
Nhận xét
Đăng nhận xét