Còn gọi là Chưn bầu, Chưng bầu, Tim bầu (Combretum quadrangulare Kurz) thuộc hạ Bàng (Combretaceae).
Mô tả: Cây nhỏ hay cây to, có thể cao tới 12m. Cành non có 4 cạnh. Lá mọc đối, hình trứng dài, chóp tù hoặc hơi nhọn, gốc thuôn. Hai mắt lá đều có lông, nhất là ở mặt dưới. Cụm hoa hình bông mọc ở kẽ lá, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Quả có 4 cánh móng. Hạt hình thoi có rìa. Mùa hoa quả: tháng 9 - 11.
Bộ phận dùng: Hạt, quả và vỏ cành non,
Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang rải rác khắp nơi vùng nước ngọt, nước mặn và đất phèn thuộc các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, nhiều nhất là ở Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Cửu Long, An Giang, Hậu Giang. Cây thường được trồng lấy củi. Rất dễ trồng, không kén đất, nước ngập không chết, có nơi phát triển thành rừng.
Thu hái quá vào tháng 1 - 2, đem phơi khô, lấy hạt. Vỏ cành non có thể thu hái quanh năm.
Hoạt chất và tác dụng: Trong hạt có tanin, dầu, béo, axit béo, canxi oxalat, axit oxalic tự do... Hàm lượng dầu trong hạt là 12%, chất không xà phòng hóa là 4,3%; dầu có màu nâu đỏ. Trong thành phần axit béo có axit palmitic (52,9%), axit linoleic (25,3%), do đó dầu Trâm bầu ngoài việc dùng trong công nghiệp xà phòng và tổng hợp các chất tẩy rửa, có thể dùng để ăn nếu được tinh luyện kỹ ngay sau khi lấy dầu ra và loại bỏ độc tố... Nước sắc hạt Trâm bầu có tác dụng mạnh đối với giun đất và sán heo, vì vậy hạt Trâm bầu được dùng trị giun sán cho người và gia súc. Chất nhầy ở vỏ cành non cũng có tác dụng trị giun.
Cách dùng: Đề trị giun đũa, giun kim; dùng hạt nướng qua rồi kẹp vào chuối chín, nhai nuốt. Người lớn 10 - 15 hạt, trẻ em tùy tuổi 5 - 10 hạt. Uống liền trong 3 ngày. Nhân dân thường dùng phối hợp với lá Mơ tam thể, cắt nhỏ hai thứ trộn đều, thêm bột và nước làm bánh ăn vào sáng sớm lúc đói.
Có cơ sở đã dùng bột hạt Trâm bầu phối hợp với bột lá Muồng trâu, làm thuốc viên Trâm bầu. Có nơi dùng lá, đọt Trâm bầu phối hợp với Nhân trần làm trà nhuận gan.
Nhận xét
Đăng nhận xét