Hẹ - Allium odorum L, thuộc họ Hành - Alliaceae. Cây thảo có thân hành nhóm thành túm, hình nón; hầu như dạng trụ. Thân mọc đứng hình trụ hoặc có góc ở ngọn, mang lá ở gốc; lá hẹp, dài, dày. Cụm hoa đạng tán, mo hình vẩy màu trắng; bao hoa màu trắng, gồm nhiều phiến thuôn mũi mác. Quả nang, hình trái xoan ngược chia ra 3 mảnh.
Hẹ cũng như Hành lá, dùng làm gia vị, làm món ăn độn. Hẹ thường đi kèm với giá, nên người ta thường nói Giá hẹ. Giá hẹ thường được sử dụng như một món ăn độn trong khi ăn các món hủ tiếu, mì xào, bún xào, bún nước lèo, bún cà ri, mắm kho. Người ta cũng sử dụng Hẹ vào một số món ăn trong đó hẹ giữ vai trò chủ chốt:
- Hẹ xào giá: hẹ và giá được chuẩn bị sẵn, đem xào với mỡ nước để ăn.
- Canh hẹ: nấu kỹ óc lợn với tàu hủ non, sau đó cho Hẹ vào rồi thêm chút muối, bột ngọt và hành lá xắt nhuyễn vào thành bát canh ngon. Hẹ cũng dùng nấu canh cá như canh cá đục.
Người ta đã biết nếu ăn 86g hẹ, trong đó chứa 1,9g protid; 5,1g glucid sẽ mang lại cho cơ thể 25 calo.
Hải thượng Lãn ông đã nói về hẹ (Cửu thái) như sau: Cay đắng chua mà vít lại mạnh cho khí và thêm cho dương sự, lại cầm máu, vít tinh, chữa chứng đau lưng, nhưng không nên dùng nhiều. Ngày nay, chúng ta sử dụng nhiều bộ phận của Hẹ để làm thuốc:
- Hột hẹ (Cửu tử) cay mà ôn, chữa chứng mộng tinh, di tinh, chứng đi đái ra huyết, chứng lưng gối mỏi, chứng tả, chứng tê và chứng đàn bà bạch đới. Còn dùng chữa viêm tiền liệt tuyến (ở người có tuổi thường hay mắc bệnh này).
- Lá Hẹ và củ Hẹ làm thuốc trị cơn ho suyễn nặng, đờm chặn khó thở, trị chứng ra mồ hôi trộm, trị sưng cổ họng khó nuốt (dùng 12 - 24g giã tươi lấy nước uống), trị viêm tai giữa (giã tươi lấy nước nhỏ). Củ và lá hẹ giã ra lấy nước uống chữa đổ máu cam, lỵ ra máu.
- Rễ hẹ là vị thuốc tẩy giun kim rất nhẹ nhàng và hiệu nghiệm.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CHỮA HO HEN - Cây Hẹ
Xem thêm: CÂY RAU CÂY THUỐC - HẸ
Nhận xét
Đăng nhận xét