Me - Tamarindus indica L., thuộc họ Đậu – Fabaceae. Cây gỗ to, cao 10 - 20m. Lá kép lông chim dài 8-10cm, gồm 10 đến 20 đôi lá chét thuôn, tù ở đầu, dài 20mm, rộng 2mm. Hoa vàng nhạt, xếp thành chùm ở nách lá hoặc thành chuỳ ở đầu cành. Quả thẳng, hơi dẹt, dài 7-25cm, rộng 1,5-2,5cm, dày độ 1cm, mọc thõng xuống; vỏ quả màu gỉ sắt, cứng giòn; cơm quả nạc, khi chín có màu nâu nhạt hay vàng nhạt, có vị chua, bao quanh những hạt dẹp.
Cây me là cây của châu Á và châu Phi nhiệt đới, được trồng phổ biến ở nhiều nước. Ở nước ta, nhất là ở các thành phố và các tỉnh phía Nam, Me được trồng làm cây che bóng dọc các đường phố, quanh các thôn xóm và người ta cũng dùng lá và quả chế biến món ăn.
Quả me, thêm đường ướp và thêm nước sẽ cho ta một loại nước uống nhuận tràng nhẹ, giải khát tốt. Nghiền nát các quả Me, lược bỏ xơ. Trên 50g cơm quả này với 50g nước, 125g đường, đun sôi đều cho cạn còn 200g (có thể sấy khô để dùng dần), sau đó pha thêm đường và nước vừa đủ ngọt để uống.
Thông thường, ta hay dùng quả me nấu canh chua với cá (nhất là các loại cá đồng). Quả mne cũng là thành phần của nhiều loại mứt. Vào lúc cây không có quả, thì lá cũng được dùng nấu canh chua thay quả me.
Cơm quả me giàu glucid (đường, pectin), khoảng 10% acid citric và tartric tự do và 8% bitartrat acid kali. Do đó mà cơm quả me có tính chất nhuận tràng. Nó có vị chua, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải nắng, tiêu hoá thức ăn, chống bệnh hoại huyết, đau gan vàng da và chống nôn ọe. Phụ nữ có thai chán cơm hay nôn nghén, nên ăn mứt Me hoặc sắc nước quả Me để uống.
Lá me thường dùng nấu nước tắm khỏi lở ngứa và phòng, bệnh ngoài da.
Gỗ cây và vỏ cây me cũng được sử dụng.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: Nhuận Tràng và Tẩy - Me
Nhận xét
Đăng nhận xét