Mướp đẳng, Khổ qua, Ổ qua, Lương qua, Mướp mủ - Momordica charantia L., thuộc họ Bầu bí Cucurbitaceae. Cây leo nhờ tua cuốn. Thân có cạnh, ở ngọn có lông dài. Lá mọc so le, phiến lá chia 5-7 thuỳ, mép khía răng cưa, trên gân lá có lông ngắn. Hoa đực và hoa cái mọc riêng lẻ, cánh hoa màu vàng nhạt. Quả hình thoi dài, mặt ngoài có nhiều u lồi; quả non màu vàng xanh, quả chín màu vàng hồng, chứa nhiều hạt dẹp có màng đỏ bao xung quanh.
Mướp đắng gốc ở châu Phi, châu Á và đã được thuần hoá ở Ấn độ. Ở nước ta, Mướp đắng được trồng ở khắp nơi trong các nương rẫy và các vườn gia đình. các tỉnh phía Nam, hầu như mọi người đều biết ăn Mướp đắng: Mướp đắng nấu với tôm, thịt lợn nạc, Mướp đắng ninh xương, Mướp đắng hấp với thịt băm, Mướp đắng muối dưa, làm nộm, Mướp đắng xào, Mướp đắng kho, Mướp đắng ăn sống làm món ăn bổ mát, chống viêm nhiệt. Trong quả Mướp đắng có một glycosid đắng gọi là momordicin và các vitamin B₁ , C, các acid amin như adenin, betain v.v... Hạt chứa một chất dầu và một chất đắng.
Quả mướp đắng quý vì nó là một loại rau, vừa là một vị thuốc có vị đắng, tính mát. Khi còn xanh, nó có tính chất giải nhiệt, tiêu đàm, sáng mắt, mát tim, nhuận tràng bổ thận, nuôi can huyết, bớt mệt mỏi, trừ nhiệt độc, lợi tiểu, làm bớt đau nhức xương. Khi đã chín, nó có tính chất bổ thận, kiện tỳ, dưỡng huyết. Nói chung, quả mướp đẳng là thuốc bổ máu, giải nhiệt, giảm ho, trị giun, nhuận tràng, sát trùng và hạ đái đường. Dùng để tắm thì đỡ nhọt sởi, xát ngoài da cho trẻ em thì trừ rôm sảy và trị chốc đầu.
Ở Trung quốc, người ta cũng dùng Mướp đắng để trị đột quy tim, bệnh sốt, khô miệng, viêm hầu, bệnh ecpet mảng tròn; liều dùng là 15-30g, dạng thuốc sắc. Hạt mướp đắng có tính bổ dương, tráng khí, dùng chữa ho, viêm họng (nhai hạt mướp đắng nuốt nước hoặc dùng mài ra cho đặc lấy nước chưng hoặc hấp cơm cho uống, hoặc nhai ngậm với muối).
Để chữa trẻ em đầu khô sủi vẩy trắng, chốc đầu, người ta dùng lá Đào nấu nước gội sạch, rồi giã quả và hạt Mướp đắng xoa hoặc bôi lên da.
Trẻ em lên cơn kinh giật ho sốt cao hoặc cơn kinh phong, dùng hạt Mướp đắng mài với nước cho uống.
Hoa, lá và rễ Mướp đắng cũng được sử dụng. Chúng đều có tác dụng trị lỵ, nhất là bệnh lỵ amip; người ta dùng rễ nấu nước uống; mỗi lần dùng 30g rễ sắc uống với đường trắng; cũng dùng trị ỉa chảy. Trong trường hợp đinh nhọt và bệnh viêm mủ da, bệnh kê, người ta dùng 5-10g lá tươi (hoặc dùng quả) nghiền ra, thêm nước làm thuốc đắp ngoài. Đồng thời dùng quả tươi để ăn như thức ăn.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: CHỮA HO HEN - Mướp Đắng
Xem thêm: CÂY RAU CÂY THUỐC - MƯỚP ĐẮNG
Nhận xét
Đăng nhận xét