Chuyển đến nội dung chính

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MÁ

CÂY RAU LÀM THUỐC - RAU MÁ - Centella asiatica

Rau má - Centella asiatica (L.) Urb., thuộc họ Hoa tán - Apiaceae. Cây thảo sống nhiều năm, mọc là là trên mặt đất và có lá tròn tròn như gò má của con người, do đó mà có tên của cây.

Rau má phân bố ở khắp vùng nhiệt đới cổ, từ các nước Ả rập, Trung đông qua Pakistan, đến các nước Đông Nam Á, châu Đại Dương. Ở nước ta, Rau má mọc hoang khắp nơi, thường gặp ở các bãi cỏ, bờ ruộng, ven suối, quanh các làng bản.

Rau má đã được nghiên cứu nhiều ở nước ta và cả trên thế giới, vì những đặc tính quý giá của nó. Tại nước ta, công dụng của Rau má vô cùng phong phú và phổ biến.

Nhân dân ta thường dùng Rau má để ăn sống, muối dưa, luộc chín hoặc nấu canh ăn.

Rau má có thể dùng nấu canh với thịt nạc hoặc tép hay cá lóc. Người ta đã phân tích thành phần hoá học của Rau má, tính theo phần trăm như sau: nước 88,2; protein 3,2; giucid 1,8; cellulose 4,5; khoáng toàn phần 2,3. Có các muối khoáng: Ca 29mg%; P 2,4mg% và các vitamin: caroten 2,60mg% và vitamin C 37mg%. 100g Rau má cung cấp cho cơ thể 21 calo (Tài liệu của Viện vệ sinh dịch tễ, 1972).

Nhưng Rau má cũng là một vị thuốc thông dụng. Nó có vị ngọt tính mát, có tác dụng chống nhiễm trùng, chống độc, giải nhiệt và lợi tiểu. Thường được chỉ định dùng trị: 1. Đau gan mật và bệnh sởi; 2. Sổ mũi, viêm hạnh nhân, đau họng, viêm khí quản; 3. Bệnh đường tiết niệu và sỏi; 4. Ngộ độc Lá ngón, nấm độc, thạch tín (arsenic). Dùng ngoài trị rắn cắn, mụn nhọt, ngứa lở và vết thương.

Rau má xay nhuyễn vắt lấy nước cốt, pha với nước Dừa xiêm là một thứ nước giải khát rất bổ. Ở các thành phố và các thị xã, thị trấn, người ta thường sử dụng nước Rau má dưới đạng nước sinh tố như các thứ quả. cây. Nhân dân ta thường dùng Rau má trong các trường hợp:

- Giải nhiệt, làm xuất được chứng nóng nảy bứt rứt trong người, trị trẻ em nóng sốt dữ dội, lên kinh phong (trong uống, ngoài xoa), chữa ngứa lở mụn nhọt, làm cho đỡ sưng, đỡ đau (uống trong, đắp ngoài).

- Giải độc, do ăn nhầm phải Lá ngón, nấm độc, thạch tín hoặc do say sắn, dùng 250g Rau má và rễ Rau muống biển 250g, giã nát, hoà nước sôi uống.

- Cầm máu như chảy máu chân răng, chảy máu cam, thể huyết, đi riểu ra máu, đi tiêu ra máu vì bệnh kiết ly, đàn bà bị bằng huyết. Thường dùng Rau má 30g, Cỏ nhọ nồi và lá Trắc bá, mỗi vị 15g, sao, sắc nước uống.

- Trị ho, giã cây tươi lấy dịch uống hoặc sắc nước uống.

- Trị khí hư bạch đới, đàn bà con gái đau bụng lúc có kinh, dùng Rau má phơi khô làm thành bột uống, mỗi sáng dùng 2 thìa cà phê bột.

- Viêm hạnh nhân: dùng Rau má tươi, giã nát nhuyễn lấy nước cốt, hoà ít giấm, nuốt từ từ.

- Trị đái buốt, đái rắt, dùng Rau mã tươi giã nhuyễn, lấy nước cốt uống.

- Làm thuốc lợi sữa: có thể ăn tươi hoặc luộc ăn, nếu luộc thì phải dùng cả nước luộc mới có tác dụng. Người ta cũng dùng cho bò sữa ăn để cho bò thêm sữa.

Người ta đã chế Rau má thành những dạng pomát hàn vết thương mau lành da, liền sẹo… để chữa các vết thương phần mềm.

Tuy nhiên, đối với những người tỳ vị hư hàn, thường đi đại tiện lỏng thì không nên dùng nhiều vì Rau má có tính mát lạnh.

Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành

Xem thêm: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - RAU MÁ


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.