Sung - Ficus racemosa L., thuộc họ Dâu tằm - Moraceae. Cây gỗ trung bình, không có rễ phụ. Lá hình trái xoan - ngọn giáo, thon hẹp tù ở gốc, hơi tù và nhọn ở chóp, hơi có lông nhung trên cả hai mặt lá khi còn non, cứng, nguyên hay hơi nhăn nheo, dài 8-20cm, rộng 4-8cm. Quả loại Sung (tức là cụm hoa bao gồm hoa đực hoa cái trên một đế hoa lõm làm thành quả giả) trên những nhánh không có lá nằm trên thân, dạng quả lê không cuống, màu lục, khi chín có màu đỏ nâu, dài 3cm, rộng 3,5cm, hơi có lông, có cuống ngắn. Toàn cây có nhựa màu trắng. Cũng cần chú ý là trên lá Sung, thường có nhiều u nhỏ, gọi là vú Sung, do có một loài sâu thuộc nhómn Psyllidae sống ký sinh làm cho lá sung bị rộp lên thành u.
Sung phân bố ở Ấn độ, Xri Lanca, Mianma, Thái lan, Lào, Việt nam và Campuchia. Ở Việt nam, cây Sung mọc ở những nơi ẩm ướt và thường được trồng quanh bờ ao.
Quả Sung ăn được, có thể dùng muối ăn như Cà, dùng luộc ăn chấm với mắm tôm, dùng kho với cá. Lá Sung non cũng ăn được, có thể ăn sống như các loại rau sống; lộc Sung dùng gói nem như lộc Ớt và Đơn nem.
Trong 100g lá Sung tưới, có các thành phần sau: nước 75,0g; protein 3,4g, lipid 1,4g; cellulose 4,8g; dẫn xuất không protein 12,3g; khoáng toàn phần 3,1g. Trong 1 kg thức ăn, có: năng lượng trao đổi 528 Kcalo; đơn vị thức ăn 0,21; protein tiêu hoá 14g; calcium 6,0 và phosphor 0,6g.
Ở nước ta Sung đã được sử dụng làm thuốc từ lâu đời trong nhận dân ta, uống trong chủ yếu chữa tắc tia sữa, dùng ngoài chữa mụn nhọt sưng tấy.
- Chữa phụ nữ sinh đẻ ít sữa hay tắc tia sữa, dùng quả Sưng, quả Mít non hay dái mít, thái nhỏ, nấu cháo với gạo nếp hoặc nấu canh với chân giò lợn mà ăn.
- Chữa nhức đầu, lấy nhựa Sung phết vào giấy dán ở hai bên thái dương.
- Chữa liệt mặt, cũng dùng giấy phết nhựa Sung dán bên mặt không méo.
Trong bộ sách Nam dược thần hiệu. Tuệ Tĩnh có ghi:
- Chữa định nhọt các loại, chích mủ Sung bôi vào.
- Chữa trẻ em lở ghẻ, dùng lá Sung non giã nhỏ xát vào sẽ bọng vẩy.
Hải thượng Lãn ông cũng có ghi trong Bách gia trân tàng:
- Chữa trên mặt nổi từng cục sưng đỏ như hạt đào, hạt mận, dùng lá Sung tật (có u nhỏ dạng vú, gọi là vú Sung) nấu nước uống, xông rửa hàng ngày.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Cây Sung
Nhận xét
Đăng nhận xét