* Đặc tính:
- Cây sung là cây rất quen thuộc với người Việt Nam. Cây sung mọc hoang và được trồng ở khắp mọi nơi trên nước ta. Sung được trồng chủ yếu ở hai bên bờ ao, rễ sung mọc lan, bám chắc giữ cho đất khỏi lở; sung rất hiếm khi được trồng trong vườn nhà bởi theo quan niệm dân gian nó chỉ là cây hoang dại, không có tác dụng gì.
- Lá sung có hình mũi giáo, đầu nhọn, phía cuống hơi tròn hơn. Khi lá còn non, cả hai mặt đều phủ lông, khi lá già, lông cứng hơn, phiến lá nguyên hoặc hơi có răng cưa thưa, dài 8 - 20cm, rộng 4 - 8cm. Lá sung thường có nốt phồng, giống như bong bóng ở chiếc bánh đa nướng, do bị sâu psyllidea kí sinh, gây ra mụn nhỏ, người ta còn gọi là vú sung.
- Sung không ra hoa mà đậu quả ngay, cho nên thời xưa thường là cây "vô hoa hữu quả" - không ra hoa mà vẫn đậu quả. Quả sung thuộc loại quả do đế hoa tạo thành, quả mọc từ gốc đến ngọn, chi chít trên cành, thành từng chùm trên thân cây và trên những cành to không mang lá, khi chín có màu đỏ nâu, hình quả lê, dài 3cm, rộng 3 - 3,5cm, mặt quả phủ lông mịn, cuống rất ngắn. Toàn thân cây sung từ rễ, thân, cành, lá đều có nhựa.
* Công dụng:
1. Chữa mụn nhọt bắp chuối, sưng vú:
Rửa sạch mụn nhọt, lau khô nước. Băm thân cây sung lấy độ một chén nhựa, bôi trực tiếp vào chỗ đau; vết sưng đỏ đến đâu, bôi đến đó; bôi nhiều lần một lúc. Có thể trộn lẫn nhựa sung với lá non, giã nát rồi đắp lên chỗ đau. Nếu mụn chưa có mủ thì đắp kín, nếu có mủ rồi đắp để hở một lỗ bằng hạt ngô. Khi đã có mủ rồi muôn lấy ngòi ra thì giã thêm một củ hành với lá sung rồi đắp để hở miệng như trên. Nếu sưng vú đắp hở miệng vú. Khi bị ngã sây sát chỉ đắp nơi sưng đỏ hoặc chừa chỗ sây sát. Thường chỉ hai đến ba ngày là thấy có kết quả.
2. Chữa bệnh hen:
Nhựa sung trộn với mật ong, phết lên giấy bản, dán vào hai bên thái dương trước khi đi ngủ. Để tăng hiệu quả, khi dùng nhựa sung bôi bên ngoài nên ăn thêm lá sung non hoặc uống nhựa sung với liều 5ml với nước lã đun sôi để nguội, cũng dùng trước khi đi ngủ.
3. Chữa đau yết hầu:
Quả sung còn xanh đem phơi khô, tán mịn, mỗi lần ngậm mội ít rồi nuốt dần.
4. Chữa khản tiếng, phổi nóng (phế nhiệt):
Lấy 20g quả sung, sắc với nước, pha thêm chút đường hoặc mật ong rồi uống.
5. Chữa đại tiện táo bón, trĩ nội, trĩ ngoại:
Lấy 10 quả sung xanh, phơi khô, lòng lợn một đoạn, nấu thành canh, ăn đến khi khỏi bệnh.
6. Trị tiêu chảy lâu ngày không khỏi:
Lấy 5 - 7 quả sung xanh phơi khô, sắc lấy nước uống.
Lá sung: Dùng để ăn với gỏi cá, gỏi cua, gỏi tôm, gói nem. Có nhà nuôi lợn sề lúc lợn đẻ cho ăn lá sung có tác dụng làm căng các bầu sữa.
Bài viết được trích từ sách: PHÒNG CHỮA BỆNH NHỜ RAU CỦ QUẢ QUANH TA
của lương y QUỐC ĐƯƠNG, NXB Từ Điển Bách Khoa ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.
Xem thêm: CÂY RAU LÀM THUỐC - SUNG
Nhận xét
Đăng nhận xét