Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - BẠCH MAI

Cây Hoa Chữa Bệnh - BẠCH MAI

Tên khác: Mai, Mắc mòi (Tày), Má pheng (Thái), Xuân mai, Đào mai, Hồng mai, Hắc mai, Mai, Mơ.

Tên khoa học: Flos Mume et Fructus Mume (Prunus mume (Sieb.) Sieb. et Zucc. Họ hoa hồng (Rosaceae).

Nguồn gốc:
Mơ là cây nhỏ, cao 4 - 5 m, vỏ thân màu nâu đỏ, có khi cao tới 10 m; cành non màu nâu hồng. Lá mọc so le, hình trứng, gốc tròn, đầu có mũi nhọn, ngắn; mép khía rằng cưa nhỏ; hai mặt nhẵn, mặt dưới đôi khi có lông ở kẽ đường gân. Mùa xuân, hoa mọc trước lá, hoa mọc riêng lẻ, màu trắng hoặc hơi hồng, nhiều nhị, thơm mát, đài hoa màu hồng nâu, tràng hoa 5 cánh. Quả hạch, hình cầu, phủ lông tơ khi còn non; lúc chín, màu vàng; hạt nhẵn. Mùa hoa: tháng 1 - 2; mùa quả: tháng 3 – 5. Loài song mai, mỗi mấu mang hai quả to, được coi là giống quý. Cây Mơ được tập trung ở phía Bắc Việt Nam, tập trung ở Hà Tây: (Chùa Hương), huyện Mỹ Đức; huyện Kim Bảng (Nam Hà); Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Mơ còn được trồng nhiều ở Armenia, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Pakistan, Iran, Ai cập, Hy Lạp v.v...
Hàng năm, thị trường thế giới tiêu thụ 30 - 40 nghìn tấn Mơ quả (riêng Nhật Bản trên 10 nghìn tấn). Ở Việt Nam, sản lượng tới 4 - 6 nghìn tấn những năm 1980.
Cây Mở ưa vùng đất ẩm, ven khe suối (Mơ khe, chè dốc), Cây chịu lạnh, có thể sống ở nhiệt độ thấp -15°C, Ở nhiệt độ 5 - 10°C, có thể khai hoa, cây chịu được đất cát sỏi. Khi nẩy mầm, cần săn sóc chăm bón, tưới nước nhiều. Khi Mai thành cây, bộ rễ phát triển, sinh trưởng rất mạnh, hút được nước. Nếu không bị hạn hán thì không cần tưới nước, nhưng phải giữ độ ẩm đủ cho mầm hoa Mai sinh trưởng.
Chủ ý: Ta cần phân biệt cây Mai (Mơ) với cây Mai vàng (tên khác Huỳnh Mai, Hoàng Mai) (Ochna integerrima Lour) (Họ Ochnaceae) hoặc Ochna harmandii H.Lee (họ Lão Mai tức Mai vàng): cây gỗ nhỏ, hoa màu vàng, thường trồng làm cảnh. Mai vàng cao 2 - 7m, lá không có lông, phiến là dày, mép lá có răng cưa nhỏ; hoa có 5 lá dài xanh, 5 - 8 cánh, hoa mỏng màu vàng, dễ rụng. Quả có nhân cứng, đen; 7 - 10 quả chụm quanh một đế hoa. Cây mọc hoang ở rừng thưa, được trồng làm cảnh ở vùng đồng bằng. Vỏ cây vị đắng, dùng làm thuốc kích thích tiêu hoá.

Bộ phận dùng: Cây Mai (Mơ)

Hoa: Tháng 1 - 2, hái nụ hoa về phơi, sấy khô để dùng.
Quả: Vào tháng 3 - 4 khi quả chín vỏ vàng, hái về, chế biến thành Ô mai, Bạch mai, dầu ép từ hạt Mơ.

Thành phần hoá học:
Quả Mơ: Acid citric, acid malic, acid oxalic, acid succinic, acid fumaric, hàm lượng acid toàn phần: 4 - 5,5%. Ngoài ra còn có (5-hydroxymethyl 2-furaldehyd); có tinh dầu, với benzaldehyd 62,40%; (terpinen 4 - ol) 3,97%; benzyl alcohol 3,97%, (acid hexadecanoic) 4,55%: nhân hạt Ô mai chứa amygdalin khoảng 0,5%.

Tác dụng: (Ô mai quả)
- Tác dụng đối với giun đũa (ascaris)
- Tác dụng kháng virus

Quả Ô Mai (Theo Đông Y):
Tính vị quy kinh: Toan, sáp, bình; vào các kinh can, tỳ, phế, đại trường
Công năng, chủ trị: Liễm phế, sáp trương, sinh tân, an hồi (yên giun). Ho lâu ngày do phế hư; lỵ lâu ngày, ỉa chảy kéo dài, hự nhiệt tiêu khát hồi quyết (chữa đau bụng, giun đũa, chân tay lạnh ngắt).

Hoa Mai Mơ (Theo Đông y)
Tính vị quy kinh: Vị toan, sáp bình; vào các kinh can, vị, phế.
Công năng: Khai uất, hoà trung, hóa đàm, giải độc, uất muộn, tâm phiển, can vị khí thông, mai hạch khí, loa lịch (tràng nhạc), sang độc.
Có tài liệu nêu: Quả Ô mai: toan, ôn, liễm phế sáp trường, sinh tân, an hồi; còn hoa Mai: toan, sáp, bình; thư can, hoà vị, hoá đàm.

Các bài thuốc nghiệm nhương, các công thức thực liệu:

Cháo Ô Mai: (Ô Mai chúc):
Ô Mai 15g, Hồng táo 4 quả, gạo tẻ 100g, đường phèn, số lượng thích hợp.
Cách điều chế: Ô Mai, rửa sạch, cho vào nồi, thêm nước lượng thích hợp, đun lửa nhỏ đến khi nước cạn còn 1/2, loại bỏ bã, giữ lại nước trấp để dùng nấu tiếp. Gạo tẻ, Hồng táo cho vào nồi, thêm nước trấp Ô mai và lượng nước thích hợp, nấu cháo. Khi thành cháo, thêm đường phèn, nguấy đếu lên là được.
Công dụng: Hoà trung, dưỡng vị; sát khuẩn, tiêu viêm, an gun, ngừng đau. Dùng điểu trị: lỵ trực trùng mạn tính, viêm đại tràng; dùng thích hợp nhất là điều trị cho trẻ em đau bụng giun.
Cách dùng: Ăn cháo Ô mai vào buổi sáng và tối.

Cháo Mai hoa (Lục ngạc mai = đài hoa Mai) (hoa còn nụ chưa nở):
Lục ngạc mai 6g, gạo tẻ 50 - 100g.
Cách điều chế: Lấy hoa Mai, loại bỏ tạp chất, rửa sạch, nấu với gạo tẻ thành cháo; ăn cháo vào lúc đói.
Tác dụng: Thư can, điều khí, thanh nhiệt, giải độc, Điều trị mai hạnh khí (= trong người có cảm giác có vật gây bế tắc, thổ không ra, nuốt không xuống, nhưng không trở ngại cho việc ăn uống); tinh thần uất ức, ngực sườn đầy tức; ngoài ra còn điều trị sang độc.

Cháo Ô mai xuyên tiêu:
Xuyên tiêu 5g, Ô mai 30g, Sử quân tử 15g, gạo tẻ 100g.
Cách điều chế: Dược liệu, loại bỏ tạp chất, rửa sạch, thêm nước lượng thích hợp, nấu 1/2 giờ, bỏ bã lấy trấp, nấu trấp với gạo thành cháo, ăn thay cơm. Có tác dụng trên giun đường mật.

Ô mai cao:
Ô mai 500g, mật ong vừa đủ.
Cách điều chế: Ô mai ngâm nước lạnh kỹ, bỏ hạt, thêm nước số lượng thích hợp. Trước hết dùng vũ hoả đun sôi, sau đó dùng văn hoá cô thành cao, Khi đã thành cao, thêm mật ong. Để thuốc nguội, cho vào bình, Mỗi lần lấy ra một thìa, hoà với nước sôi để uống. Mỗi ngày dùng 2 - 3 lần. Tác dụng: điều trị lỵ mạn tính.

Ô thầm cao:
Quả Dâu chín đen, Ô mai nhục, bột Tử tô, đường trắng, các vị thuốc sô lượng thích hợp.
Cách điều chế: Quả Dâu ép lấy nước trấp, bỏ bã, hoà với đường trắng, phơi khô, cô lại thêm Ô mai nhục, bột Tử tô nguấy đều, chế biến thành bánh; phơi khô, bảo quản, ăn dần.
Tác dụng: Hạ nhiệt, dưỡng âm.

Ô mạch cao:
Mạch đông 20g, Ô mai 50g, Trần bì tẩm kỹ trong nước; sắc lấy nước trấp, cô lại. Sau sắc lấy nước trấp lần thử hai, thứ ba. Hợp nhất các nước trấp lại; dùng văn hoả nấu thành cao rồi thêm mật ong; để nguội cho vào bình. Cách dùng: mỗi lần dùng một thìa, ngày dùng 3 lần, hoà với nước sôi để uống.
Tác dụng: Điều trị viêm dạ dày mạn tính, thể âm hư,

Trư trường Ô Mai tán:
Ruột (lòng) lợn 1 đoạn; buộc 2 đầu, Ô mai số lượng thích hợp.
Cách điều chế: Ô Mai bỏ hạt; lòng lợn rửa sạch, nhồi Ô mai vào đầy ruột lợn, buộc 2 đầu, phơi khô rồi để trên viên ngói sạch, sấy khô, tán thành bột.
Cách dùng: Mỗi lần dùng 5g, mỗi ngày dùng 3 lần; uống với nước cơm (hấp nóng) vào lúc đói. Cũng có thể lấy bột thuốc hoà vào dầu vừng, bôi vào hậu môn. Tác dụng: điểu trị sa trực tràng thể khí hư (thuốc liễm, làm co lại).

Ô mai thang:
Ô Mai 500g, bột Cam thảo 60g, sa đường 120g; bột Gừng khô 15g.
Cách điều chế: Tẩm Ô mai trong nước ấm, cho mềm; bỏ hạt cho vào nồi hấp chín; lấy ra giã nát phối hợp với các vị thuốc trên, nguấy đều rồi lại bỏ vào nồi chưng kỹ. Bảo quản, dùng dần. Mỗi lần dùng thêm ít muối chế thành nước uống.
Tác dụng: Dưỡng vị, ích khí, sinh tân; khử hoả, giải thư.

Ô mai, sinh khương trà:
Sinh khương 10g, Ô Mai nhục 30g, chè xanh 10g.
Cách điều chế: Sinh khương rửa sạch, thái sợi, phối hợp với Ô mai nhục, chè xanh, chia làm 2 - 3 lần, hãm với nước nóng 1/2 giờ, rồi thêm một ít hồng đường, uống nóng.
Tác dụng: Điều trị lỵ mạn tính.

Ô Mai binh lang trà:
Ô mai 20 quả, Binh lang 20 hạt.
Cách điều chế: Hãm Ô mai, Binh lang trong nước sôi từ 10 đến 15 phút, uống thay trà.
Tác dụng: Trị đau bụng do giun chui ống mật (đảm đạo hồi trùng chứng phúc thống).

Ô Mai xuyên tiêu trà:
Xuyên tiêu 6g, ô mai 15g.
Cách điều chế: Xuyên tiêu, Ô mai, loại bỏ tạp chất, rửa sạch, hãm với nước sôi từ 10 đến 15 phút, uống thay trà.
Tác dụng: Trị đau bụng do giun chui ống mật.

Cháo Mai hoa: Mai hoa 10g, gạo tẻ 100g,
Cách điều chế: gạo tẻ nấu thành cháo, thêm hoa Mai đã rửa sạch, nấu cho sôi tiếp 2 - 3 lần là được.
Tác dụng: Trị xơ gan, thể can uất (nhẹ).

Cháo Ô Mai, Trần bì:
Ô mai 20g, Trần bì 30g, gạo tẻ 50g.
Cách điều chế: Ô mai, Trần bì thêm nước số lượng thích hợp, nấu 1/2 giờ, sau đó bỏ bã lấy nước trấp, nấu với gạo tẻ thành cháo.
Tác dụng: Điều trị có thai nôn mửa, thể vị nhiệt.

Toan vị ẩm: Ô mai 1.800g (bỏ vỏ), đường trắng 1.200g.
Cách điều chế: Ô mai rửa sạch, tẩm mềm, bỏ vỏ hạt, cho vào bình miệng rộng, cùng với đường trắng, đậy kín: Sau 1 tháng mở bình ra gạt bỏ Ô mai nổi ở tầng trên, làm rượu uống; có thể pha thêm rượu tùy tửu lượng.
Tác dụng: Trị bệnh trường vị mạn tính; ăn không tiêu, dẫn tới bệnh trường vị.

Chú thích: Dược liệu này có ghi trong: Nam Dược Thần Hiệu, Tuệ Tĩnh.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.