Chuyển đến nội dung chính

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - Chuối Tiêu

NHỮNG VỊ THUỐC QUANH TA - Chuối Tiêu

a. Thành phần và tác dụng

Chuối tiêu là một loại quả giàu dinh dưỡng, hương vị thơm ngon. Trong một quả chuối có 22% gluxit, 1,5% protein, 0,4% axit hữu cơ, các vitamin B₁, B₂, Pₚ và muối khoáng như phot pho, sắt. Đặc biệt năng lượng do chuối tạo ra khá lớn, cao hơn mỳ, gạo, 1 kg thịt quả chuối cho 1200 calo. Theo các chuyên gia, chuối tiêu là thực phẩm có hàm lượng tinh bột cao, có tác dụng rất lớn trong việc phòng ngừa ung thư đường ruột. Chuối làm lương thực bổ sung cho các loại ngũ cốc. Chuối chín ăn tươi vừa vệ sinh, lại bổ, dễ tiêu, nên dùng để bồi dưỡng cho người già yếu, trẻ chậm lớn rất tốt. Về mùa đông da nứt nẻ dùng chuối tiêu bôi 3 - 5 lần là có tác dụng. Chuối tiêu chín thái mỏng pha nước trà uống thường xuyên giảm được huyết áp. Chuối còn chế biến đồ hộp, bánh kẹo...
Theo một số chuyên gia, chuối tiêu cung cấp đủ năng lượng cho vận động viên khi luyện tập liên tục 90 phút sau khi ăn 2 quả chuối chín. Chuối tiêu chống thiếu sắt vì trong chuối có chất sắt.
Chuối tiêu làm hạ huyết áp do trong chuối có kali và lượng natriclorua thấp, vì vậy chuối có khả năng làm hạ huyết áp và giảm đột quy.
Trong chuối tiêu giàu chất xơ nên khắc phục được chứng táo bón. Phụ nữ có thai nên ăn chuối, vì chuối làm ổn định đường huyết và tránh được buồn nôn do ốm nghén.
Theo kết quả của nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, chuối tiêu có khả năng ức chế vi khuẩn đường ruột, tăng huyết áp, giảm buồn phiền, giảm độ chua trong dạ dày... Ngoài ra, chuối tiêu còn rất tốt cho việc giải nhiệt, nhuận tràng, giải độc, chữa táo bón, chữa bệnh trĩ, viêm họng.

b. Bài thuốc phối hợp

- Táo bón: Mỗi ngày ăn 2 quả chuối chín vào buổi sáng; boặc dùng 2 quả chuối chín bóc vỏ kết hợp với một ít thân cây atisô cùng chút nước và đường trộn đều đun nhỏ lửa khoảng nửa tiếng rồi lấy nước uống.
- Đau bụng: Lấy chuối nướng nóng ngày ăn 2 lần.
- Trầm uất: Những người mắc bệnh trầm cảm, tinh thần u uất nên ăn chuối tiêu hàng ngày. Nếu bỗng nhiên cảm thấy lo buồn, bị quan, bạn cũng nên ăn vài quả chuối tiêu để giảm bớt tâm trạng đó.
- Huyết áp và cholesterol máu cao: Hàng ngày ăn chuối tiêu 3 lần, mỗi lần 1 - 2 quả. Ăn liên tục khoảng 1 tháng, huyết áp sẽ giảm rõ rệt.
Hoặc lấy vỏ chuối (chú ý lấy cả cuống) 30 - 60g, sắc uống. Uống liên tục trong 10 - 12 ngày, hàm lượng cholesterol có thể giảm đi thấy rõ.
- Đại tiện xuất huyết: Hàng ngày, trước khi đi ngủ nên ăn 2 - 3 quả chuối tiêu để nhuận tràng và phòng chống xuất huyết.
- Viêm giác mạc cấp tính: Lấy thịt quả chuối giã nát, đắp lên chỗ đau, có tác dụng tiêu viêm và đỡ khó chịu.
- Chân tay bị nứt nẻ: Hàng ngày, sau khi rửa sạch chân tay, lấy chuối tiêu (để cả vỏ, loại chín đen càng tốt) đặt lên bếp nướng cho nóng rồi xát nhẹ lên chỗ da bị nứt. Thường thì sau vài ngày, da sẽ liền lại.
- Chữa chứng ngứa: Lấy vỏ chuối đắp vào vết thương, sẽ chữa được chứng ngứa do vi khuẩn gây nên. Đó là do vỏ chuối chứa một số chất có khả năng ức chế trực khuẩn và một số loại vi khuẩn khác.
- Ho do nhiệt: Khi bị ho khan, họng nóng rát, lấy chuối tiêu 1 - 2 quả, thêm chút đường phèn, hấp cách thuỷ, ăn ngày 2 lần. Ăn vài ngày có thể khỏi bệnh.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.