Chuyển đến nội dung chính

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

I. GIỚI THIỆU

Học thuyết ngũ hành cũng là học thuyết về triết học cổ, ra đời sau thuyết âm dương, nhằm bổ sung vào những chỗ khiếm khuyết của thuyết âm dương. Thuyết được tác giả Trâu Diễn thời Chiến Quốc (Trung Quốc) nghiên cứu đề xuất. Thuyết ngũ hành dùng 5 vật thể gần gũi trong cuộc sống, tượng trưng cho vạn vật trong thiên nhiên, đó là kim (kim loại), mộc (gỗ), thuỷ (nước), hoả (lửa), thổ (đất) và gọi đó là ngũ hành. Tác giả đã đưa ra được các mối quan hệ mật thiết, hữu cơ giữa ngũ hành với nhau thông qua một số qui luật hoạt động của chúng. Đó là những qui luật tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ...

II. NHỮNG QUY LUẬT HOẠT ĐỘNG CỦA NGỦ HÀNH

2.1. Trong điều kiện bình thường.

Ngũ hành hoạt động theo quy luật. Lương sinh, tương khắc.

2.1.1, Quy luật tương sinh:

- Hành này hỗ trợ, thúc đẩy hành kia, theo quy luật hành đứng sau, sinh ra, thúc đẩy hành đứng trước: mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thủy lại sinh mộc, cứ thế phát triển luân hồi. Có thể biểu diễn theo sơ đồ sau:

Mộc => Hoả => Thổ => Kim => Thủy => Mộc

Nếu ta hình dung cuộn tròn chuỗi tương sinh Mộc ... Thuỷ ta sẽ có hình 6, biểu diễn trên một vòng tròn.

Hình 6: Quy luật tương sinh
Hình 6: Quy luật tương sinh

2.1.2. Quy luật tương khắc:

Hành này ức chế kìm hãm hành kia. Hành kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim. Có thể theo dõi ở sơ đồ sau:

Kim ###> Mộc ###> Thổ ###> Thuỷ ###> Hoả

Nếu biểu diễn theo vòng tròn ở hình 6, ta sẽ có hình 7, biểu thị sự tương khắc (cùng với tuơng sinh)

Hình 7: Biểu thị tương khắc (cùng tương sinh)
Hình 7: Biểu thị tương khắc (cùng tương sinh)

2.2. Trong điều kiện không bình thường

Ngũ hành hoạt động theo 2 quy luật tương thừa, tương vũ.

2.2.1. Tương thừa:

Hành đi khắc mạnh hơn hành được khắc, kim khắc mộc, kim mạnh hơn mộc. mộc khác thổ nhưng mộc mạnh hơn thổ, thổ mạnh hơn thuỷ, thuỷ mạnh hơn kim. Có thể diễn biến theo qui luật tương thừa theo sơ đồ sau:

2.2.2. Tương vũ:

Hành bị khắc mạnh hơn hành đến khắc. Hành mộc mạnh hơn kim, thổ mạnh hơn mộc, thủy mạnh hơn thổ, hỏa mạnh hơn thủy, kim mạnh hơn hỏa. Có thể biểu diễn quy luật tương vũ theo sơ đồ sau:

2.3. Qui luật chế hoá (chế ước) ngũ hành.

Trên thực tế các qui luật hoạt động của ngũ hành rất phức tạp, đan xen vào nhau bị ràng buộc và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các qui luật. Mỗi một hành đều bị ảnh hưởng tương sinh hoặc tương khắc của các hành khác và được thể hiện ra ở qui luật tổng hợp gọi là qui luật chế hoá hay chế ước ngũ hành. Có thể biểu hiện ở hình 8.
Tóm lại các qui luật của ngũ hành nói lên sự vận động chuyển hoá chế ước lẫn nhau. Một hành bị ràng buộc và quan hệ với 4 hành đứng cạnh. Mỗi hành đều tự vận động bên cạnh sự hoạt động của bến hành khác càng làm cho các qui luật hoạt động của ngũ hành phức tạp và phong phú thêm.

Hìnhh 8: Qui luật chế hoá ngũ hành
Hìnhh 8: Qui luật chế hoá ngũ hành

III. SỰ VẬN DỤNG CỦA THUYẾT NGŨ HÀNH

3.1. Vận dụng vào thế giới tự nhiên. (Xem bảng 2)

Bảng 2. Vận dụng ngũ hành vào thế giải tự nhiên
Bảng 2. Vận dụng ngũ hành vào thế giải tự nhiên

3.2. Vận dụng vào y học.

3.2.1. Tổ chức học cơ thể: Trước hết người ta ghép phủ tạng lục phủ và các bộ phận trong cơ thể vào các hành tương ứng, xem bảng 3.

Bảng 3. Vận dụng ngũ hành vào cơ thể
Bảng 3. Vận dụng ngũ hành vào cơ thể
Ghi chú: ngoài 5 phủ ghỉ ở bảng 3, còn có 
phủ tam tiêu tương ứng với tâm bào.

3.2.2. Vận dụng vào quy kinh và chế biến thuốc y học cổ truyền:

Thuyết ngũ hành được vận dụng vào chế biến thuốc khá phong phú. Hiện nay rất nhiều vị thuốc được chế biến vận dụng theo nguyên tắc ngũ hành. Để hiểu rõ sự vận dụng này ta cần nắm chắc sự qui nạp tạng phủ..., vào ngũ hành ở bảng 3 và sự qui nạp các mầu sắc, mùi vị ở bảng 2. Trên cơ sở tổng hợp màu, sắc mùi vị của thuốc đối chiếu với các tạng phủ và ngũ hành biết được vị thuốc sẽ trích tẩm với phụ liệu gì? màu sắc ra sao và sẽ quy nạp vào tạng phủ nào? Kinh nào? Mặc dù vậy sự qui nạp đó cũng mang tính chất tương đối.
- Mầu sắc và mùi vị thuốc cho phép ta biết hướng qui nạp của chúng vào tạng phủ nào? Ví dụ: phần lớn những vị thuốc có màu đỏ vị đắng được qui nạp vào tạng tâm và tiểu tràng (hành hoả) như: huyết giác, thần sa, chu sa, mã xỉ hiện... Để tăng thêm sự quy kinh của thuốc vào tạng tâm, có thể tẩm hoặc trích với các chất có màu đỏ. Ví dụ tẩm thần sa vào xương bồ để tăng tác dụng trấn tâm của xương bồ; hầu hết các vị thuốc có vị đắng đều tác dụng vào tâm tiểu tràng; vào tâm: liên tâm, táo nhân, lạc tiên, ngải tượng... tác dụng an thần, trấn tĩnh. Những vị đắng: hoàng liên, hoàng đằng, kim ngân, xuyên tâm liên... đều tác dụng vào tiểu tràng.
- Những vị thuốc có màu vàng vị ngọt phần lớn qui nạp vào tạng tỳ, phủ vị (hành thổ) như cam thảo, hoàng kỳ, bạch truật, hoài sơn... để tăng tác dụng vào hành thổ có thể, sao vàng, sao cám cho thơm, vì thơm, thuộc hành thổ, trích mật ong, đường (hoàng kỳ, cam thảo), bạch truật, trích hoàng thổ.
- Mốt số vị thuốc có màu trắng, vị cay tác dụng vào tạng phế, đại tràng (hành kim) như tang bạch bì, bối mẫu, cát cánh, bách hợp, sa nhân, bố chính sâm, đẳng sâm... đều có màu trắng đều tác dụng vào phế, đại tràng như sinh khương, bạc hà, húng chanh, xạ can, tô tử, bạch giới tử, lai phục tử v.v.. đều có tác dụng chữa ho, long đờm. Các vị tiểu hồi, đại hồi, can khương, sa nhân, đinh hương, quế nhục... cũng cay có tác dụng vào đại tràng với công năng ôn tràng, chỉ thống, chỉ tả.
- Để tăng tác dụng vào phế người ta có thể tẩm trích thuốc với dịch sinh khương như đẳng sâm, cát cánh...
- Một số vị thuốc có vị mặn, sắc đen có tác dụng vào tạng thận, bàng quang (hành thuỷ) như huyền sâm, côn bố, địa long, xuyên sơn giáp, hổ cốt... Để tăng tác dụng vào thận có thể trích với muối ăn như cẩu tích, tục đoạn, đỗ trọng, trạch tả... trích muối. Để có màu đen, có thể sao sém cạnh, sao cháy... hà diệp, trắc bách diệp, ngải diệp sao cháy...
- Một số thuốc có vị chua màu xanh có tác dụng vào can đởm (hành mộc) như ngưu tất, ngũ vị tử, sơn tra, mộc qua... Cần tăng vị chua có thể trích giấm như nga truật, hương phụ... Để có màu xanh có thể trích mật bò, mật lợn như thiên nam tinh sau khi trích mật bò thành đởm nam tinh (đởm là mật).

3.2.3. Thuốc y học cổ truyền mang tính chất tương sinh:

- Thuốc kiện tỳ bổ phế khí: thuốc dùng tính chất kiện tỳ song lại được chữa các bệnh phế hư như đẳng sâm, hoàng kỳ, cam thảo, hoài sơn...
- Thuốc dùng với tính chất bổ thận thủy song lại ức chế can hoả vượng như: hoàng tinh, thục địa hoặc phương lục vị, phương bổ âm...
- Thuốc dùng với tính chất bổ can, song lại có ý nghĩa bổ tâm huyết như bạch thược, hà thủ ô đỏ, đương quy...
- Thuốc với tính chất thanh tâm hoả; song lại thanh thấp nhiệt ở tỳ như hoàng liên, mã xỉ hiện, tô mộc.
- Thuốc dùng với tính chất bổ phế song lại bổ thận như tắc kè, cao ban long, tử hà sa.

3.2.4. Thuốc y học cổ truyền mang tính tương khắc:

- Một số vi thuốc thán sao, trắc bách diệp, hoa hoè, hạn liên thảo, tông lư thán, loạn phát... quy nạp hành thuỷ (tạng thận), tương khắc với hành hoả (tạng tâm). Với công năng chỉ huyết, dùng khi xuất huyết (vì tâm chủ huyết mạch)

3.2.5. Thuốc y học cổ truyền mang tính tương thừa:

- Về mặt chứng trạng:
Lấy hành thổ và thủy làm ví dụ; trường hợp này thổ lấn át thuỷ. Nếu lấy tạng làm chủ thể thì tạng tỳ mạnh hơn tạng thận; tỳ khí mạnh hơn thận khí. Trong trường hợp cụ thể này thận khí kém gây ù tai, đau lưng hoặc di tính, di niệu; nặng hơn là sa tử cung, thoát vị...
- Thuốc mang tính tương thừa:
Thuốc qui kinh tỳ vị (hành thổ) song có đủ sức mạnh để tác động vào thận khí, giúp cho thận khí mạnh lên; điều trị các chứng sa giáng nói trên của thận. Đó là những thuốc kiện tỳ ích khí như nhân sâm, đảng sâm, hoàng kỳ, hoài sơn... Cũng lý luận tương tự cho các hành mang tính tương thừa tương ứng như hành hoả (tạng tâm) với hành kim (tạng phế). Ta biết tâm chủ huyết, phế chủ khí, chẳng hạn huyết nhiệt sinh phong (phong ngứa) thì ảnh hưởng trực tiếp đến tạng phế (phế chủ bì mao). Dùng các vị thuốc mang tính tương thừa như hoàng liên, liên kiều (qui kinh tâm) song lại chữa được ngứa ở bì phu (do phế hợp bì mao).

3.2.6. Thuốc y học cổ truyền mang tính tương vũ:

- Về mặt chứng trạng:
Lấy hành kim (tạng phế) và hành mộc (tạng can) làm vị dụ; trường hợp này can mộc mạnh hơn phế kim, có khả năng chống trả lại phế kim; ví dụ phế bị bệnh phế ung, ho, xuất huyết. Những thuốc tương vũ, tuy qui kinh can song lại có tác dụng ở tạng phế như hoàng cầm chữa phế ung, phế có mủ, địa cốt bì thanh phế nhiệt, chi tử chỉ khái huyết... Cùng lý luận tương tự cho các chứng trạng và những vị thuốc mang tính tương vũ tương ứng ở các hành khác và tạng phủ khác.

3.2.7. Vận dụng vào chấn đoán:

Có 5 loại tà biểu hiện như sau: bệnh từ tạng mẹ truyền đến con là hư tà; bệnh từ tạng con truyền đến tạng mẹ là thực tà. Bệnh từ tạng đi khắc truyền đến tạng bị khắc là tặc tà. Bệnh từ tạng bị khắc truyền đến tạng đi khắc là vị tà. Bản tạng bị bệnh là chính tà.
- Ví dụ: tiểu tiện không thông (bí đái) do phế thực chứng (quy luật tương sinh); hoặc can hoả thượng thăng, đau đầu, hoa mắt, mắt mờ, do thận thủy kém không thể nuôi dưỡng phần âm để hoả bốc lên (tương sinh) hoặc tâm quý, hồi hộp do can huyết kém (tương sinh) hoặc bệnh vàng da (da thuộc phế) là do can sơ tiết mật kém (tương khắc), phế hô hấp khó khăn đoản hơi... dẫn đến chứng tâm nhiệt (tương khắc).

3.2.8. Vận dụng vảo điều trị:

Thuyết ngũ hành được vận dụng vào điều trị theo 2 nguyên tắc sau đây:

3.2.8.1. Nguyên tắc thứ nhất: "Con hư bổ mẹ"

- Hành đứng trước là mẹ. Hành mộc là mẹ của hành hoả
- Hành đứng sau là con. Hành thổ là con của hành hoả
- Hư là hư chứng
Nếu hành con (hành đứng sau) bị hư chứng thì dùng phương pháp bổ và thuốc bổ cho hành mẹ đứng trước.
Ví dụ bị chứng phế hư (bệnh lao chẳng hạn...) phải dùng thuốc bổ vào tỳ, với các thuốc kiện tỳ ích khí như: nhân sâm, đảng sâm, bạch truật... hoặc phương pháp bổ bằng thức ăn thức uống cũng là một phương pháp quan trọng để chữa bệnh lao. Hoặc chứng tâm huyết kém da xanh xao, lưỡi nhạt, mắt trắng... dùng thuốc bổ vào can huyết như hà thủ ô đỏ, bạch thược (vì can tàng huyết).

3.2.8.2. Nguyên tắc thứ hai: "Mẹ thực tả con"

- Thực là thực chứng
- Tả là phương pháp tả, đối lập với bổ
Ví dụ khí phế bị thực chứng gây ho đờm, suyễn tức khó thở, phải dùng thuốc lợi tiểu (kim tiên thảo, sa tiền tử, trạch tả, tỳ giải...) để tả thận thủy. Hoặc thận thủy kém tiểu vàng, tiểu đỏ phải dùng thuốc lợi gan mật như long đởm thảo, sài hồ, chi tử... để thanh can nhiệt (tức tả can).

3.2.8.3. Hệ quả

Từ hai nguyên tắc nói trên, rút ra một hệ quả quan trọng
Hư thì bổ
Thực thì tả
Hệ quả này mang ý nghĩa sâu sắc trong nhiều lĩnh vực của y học cổ truyền. Với phép tác chữa bệnh cũng đưa vào hệ quả đó. Ví dụ bệnh thuộc chứng hư, phải dùng phương pháp bổ và dùng thuốc bổ.
+ Khí hư bổ khí (dùng phương bổ khí hư như Tứ quân tử thang).
+ Huyết hư bổ huyết (dùng phương Tứ vật thang).
+ Khí huyết lưỡng hư (dùng phương Bát trân thang, Thập toàn đại bổ...) Nếu thuộc chứng thực phải dùng phương pháp tả và thuốc mang tính chất tả. Ví dụ: đau bụng do đại tràng thực nhiệt, táo kết (dùng phương đại thừa khí thang hoặc tiểu thừa khí thang).
Hệ quả đó quán triệt trong cả phương pháp điều trị bằng châm cứu xoa bóp.
+ Châm bổ: đối với bệnh thuộc chứng hư, người già yếu... khi châm, ít vê kim, tần số vê kim thấp, rút kim ra cần ấn vào huyệt...
+ Châm tả: đối với bệnh thuộc chứng thực khi châm, tần số vê kim nhiều, cường độ vê lớn, khi rút kim ra không cần ấn vào huyệt, đôi khi còn thích huyết.

IV. VÀI NÉT NHẬN XÉT VỀ HỌC THUYẾT NGŨ HÀNH

1. Ưu điểm.

Là thuyết đuy vật biện chứng thô sơ đã bổ sung cho thuyết âm dương, bổ sung cho kho tàng lý luận triết học nói chung và lý luận YHCT nói riêng. Đã được YHCT vận dụng về mặt tổ chức học; kha: thác các quy luật ngũ hành cho điều trị, cho chế biến thuốc cổ truyền...

2. Nhược điểm.

Thuyết còn thể hiện sự máy móc, cứng nhắc do sự quy định phạm vi hoạt động của thuyết quá hẹp (5 hành); dẫn đến hạn chế trong vận dụng đặc biệt về mặt triệu chứng phương pháp điều trị của YHCT.

Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI, 
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.