Chuyển đến nội dung chính

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOA NHÀI

Cây Hoa Chữa Bệnh - HOA NHÀI

Tên khác: Cây hoa Lài; Nhài đơn; Nhài kép; Mạt lị hoa
Tên khoa học: Jasminum sambac (L) Ait. Họ Nhài (Oleaceae).

Nguồn gốc:
Cây nguồn gốc châu Á lục địa vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới, kể cả các đảo như Srilanka, Indonesia và các nước như Việt Nam, Trung Quốc... Indonesia trồng Nhài để lấy hoa làm chất hương vị cho thực phẩm; chữa sốt. Việt Nam trồng Nhài làm cây cảnh, lấy hoa thơm tiếp trà (chè hoa Nhài) và cho thêm vào thức ăn (như tào phở) với nước đường thơm hoa Nhài. Miền Nam Việt Nam trồng nhiều Nhài để dùng ở trong nước và xuất khẩu hoa Nhài.

Mô tả:
Cây nhỏ; lá hình bầu dục màu lục đậm và bóng. Hoa mọc thành cụm; màu trắng rất thơm; nở về đêm (thường dùng để ướp chè hoặc điều chế tinh dầu Nhài).
Cây cao khoảng 1m, nhiều cành, lá mọc đối; hình bầu dục hay trái xoan, nhọn ở đầu và phía cuống; dài 3 - 7 cm, rộng 2 - 3,5 cm, 2 mặt đều bóng, khe các gân phụ, ở mặt dưới có lông. Cụm hoa mọc ở đầu cành, họa màu trắng, mùi thơm ngát; đường kính khoảng 2cm. Quả có 3 ngăn, hình cầu, đường kính 6mm, màu đen; quanh có đài phủ lên. Mùa hoa: tháng 6 - 10.

Bộ phận dùng:
Hoa, lá phơi khô (nhẹ độ), dùng sống hay sao qua. Rễ, thái nhỏ, sao vàng; tinh dầu Hoa nhài.
Tinh dầu Hoa nhài được chế tạo ở một số nước như ở miền Nam nước Pháp, từ hoa Nhài bằng phương pháp ướp hoa với chất béo (enfleurage) để lấy hương Nhài, hoặc chiết xuất tinh dầu bằng dung môi dễ bay hơi như ête dầu hỏa, ethylchlorid, hiệu suất đạt khoang 0,18%.

Thành nhần hóa học:
Hoa Nhài tươi chứa tinh dầu trong đó chủ yếu có benzylalcohol và chất ester của nó, chất jasmon, linalool, benzoat linalyl...
Tinh dầu họa Nhài, tham mát dễ chịu tỷ trọng 0,920 - 1,015 (ở 15°C) được bán trên thương trường dưới dạng pomat Nhài (Jasmin pomade) hoặc tinh dầu hoa Nhài, dạng cô đặc hay dạng chất tinh. Thành phần tinh dầu có chứa: benzyl aretat 41 - 72%, linalyl acetat, linalool, indol, methylester của acid anthranilic, chất ceton Jasmon, chất geraniol v.v...

Theo Đông y:
Tính vị: Tân, cam, ôn
Công dụng: Lý khí, khai uất, tịch uế, hoà trung. Dùng điều trị: hạ lị, bụng đau; viêm kết mạc, sang độc.

Cách dùng, liều lượng:
1. Hoa dùng pha thuốc rửa mắt, chữa viêm màng khoé mắt và màng mộng. Lấy 2 - 4g hoa khô, hãm như pha trà, để rửa mắt và uống.
2. Lá nhài: chữa trẻ em lên sởi, có sốt nhiều; sởi mọc không đều; vật vã. Liều dùng: lá tươi sao vàng hạ thổ; ngày dùng 10 - 20 g (hoặc 12 g lá khô), dưới dạng thuốc sắc.
3. Rễ Nhài: làm giảm đau, an thần. Liều dùng: 2 - 4g
Chú ý: Rễ không được dùng dưới dạng rượu (có độc, có tác dụng gây mê). Dùng phải cẩn thận.
4. Hoa nhài thơm còn dùng để ướp trà. Trong gia đình, người ta tự chế lấy nước hoa Nhài bằng cách chọn những bông Nhài quế thơm, hàm tiếu, làm sạch, ngâm vào nước (đã đụn sôi để nguội) đựng trong hộp, nắp kín, để nơi lạnh mát hoặc trong tủ lạnh. Nhài sẽ toả hương thơm ngất vào nước. Sau đó đem dùng làm thơm thực phẩm như tào phở, thạch v.v.
5. Tinh dầu Hoa nhài dùng làm hương liệu.

Hoa Nhài mọc lâu đời ở Việt Nam, dược liệu được ghi trong Nam Dược Thần Hiệu, Tuệ Tĩnh.

Bài viết được trích từ sách: CÂY HOA CHỮA BỆNH
của các tác giả Nguyễn Văn Đàn, Vũ Xuân Quang, 
Ngô Ngọc Khuyến biên soạn, NXB Y Học ấn hành.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.