Chuyển đến nội dung chính

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG

DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN - Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG

HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG

I. GIỚI THIỆU

Thuyết tạng phủ là một thuyết trong hệ thống lý luận của y học cổ truyền, chỉ ra hiện tượng và hình thái tạng phủ của con người dựa trên quan niệm chỉnh thể thông qua hệ thống kinh lạc, đem các tổ chức, các bộ phận toàn thân liên kết thành một khối chỉnh thể hữu cơ.
- Tạng: chỉ các cơ quan có chức năng tàng trữ, quản lý các hoạt động chính của cơ thể. Có ngũ tạng: tâm, can, tỳ, phế, thận.
- Phủ: chỉ các cơ quan có khả năng thu nạp chuyển giao và truyền tống cặn bã. Có 6 phủ chính (lục phủ): vị, đởm, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, tam tiêu. Ngoài ra còn một số phủ khác (phủ kỳ hằng), não, tử cung...

II. NGŨ TẠNG

2.1. Tâm

Tâm là tạng quan trọng nhất, là quân hoả, là trung tâm những hoạt động sống của cơ thể. Tâm nằm trong lồng ngực, được biểu hiện một số chức năng:
+ Tâm chủ huyết mạch, tâm quản về huyết mạch. Tâm làm đầy chắc huyết mạch. Trước hết phải nói đến quan hệ mật thiết của tâm huyết và mạch. Mạch là đường dẫn huyết được phân bố khắp cơ thể. Huyết có tác dụng dinh dưỡng toàn thân. Tâm và mạch đóng vai trò tuần hoàn huyết. dịch, thông qua đó huyết được vận hành thông suốt tam tiêu. Chức năng tâm chủ huyết mạch tốt thể hiện mặt hổng nhuận sáng sủa, da đẻ tươi nhuận. Chức năng này kém thì sắc mặt xanh xao, xám héo, môi thâm.
Chức năng này có thể liên quan đến các loại thuốc hành huyết, hành khí, bổ huyết, bổ âm.
+ Tâm tàng thần: thần là biểu hiện tổng hợp của mọi hoạt động tình thần, trí tuệ ý thức, tri thức của con người. Thần là biểu hiện tư duy, sinh lý của vỏ não. Chức năng tâm tàng thần tốt biểu hiện ra sự thông minh hoạt bát, và ngược lại tâm không tàng được thần, sẽ xuất hiện các chứng hay quên, tư duy kém, mất ngủ, mệt mỏi... Chức năng tâm tàng thần có liên quan mật thiết với tâm chủ huyết mạch. Nếu tâm huyết bất túc (không đây đủ) thì ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của tinh thần... Khiếu mắt là biểu hiện của thần.
Thần chí tốt mắt trong sáng tinh tường, nhanh nhẹn; thần chí kém mắt lờ đờ chậm chạp. Nhìn mắt của bệnh nhân có thể tiên lượng được khả năng tiến thoái của bệnh vì biết được thần chí của họ diễn biến thế nào ? Những loại thuốc liên quan đến chức năng tàng thần của tâm như thuốc trấn tâm an thần, gây ngủ, thuốc bổ huyết, bổ âm... thuốc khai khiếu tinh thần.
+ Tâm chủ hãn: hãn là mồ hôi, là sản phẩm thanh lọc của chất tân, được thải qua tấu lý (lỗ chân lông). Các bệnh về hãn: tự hãn (tự ra mồ hôi), đạo hãn (mồ hôi trộm), vô hãn (không có mồ hôi) đều liên quan đến tạng tâm. Chức năng tâm chủ hãn có liên quan đến chức năng tàng thần. Khi tâm không tàng được thần thì mồ hôi tự vã ra. Đó là trường hợp khi con người đúng trước một sự việc khá kinh khủng; hoặc khi bị trúng phong, trúng thử thần chí bị hôn mê thì mồ hôi cũng tự vã ra.
Thuốc có liên quan đến tâm chú hãn đó là các thuốc liễm hãn cố sắp cố biểu, thuốc an thần.
+ Tâm khai khiếu ra lưỡi: lưỡi là sự thể hiện ra bên ngoài của tâm. Nhìn thể chất, màu sắc của lưỡi biết được tình trạng của tâm. Chất lưỡi mềm mại, sắc hồng nhuận, nói năng hoạt bát là biểu hiện của trạng thái tâm tốt. Ngược lại chất lưỡi nhợt nhạt, lưỡi cứng hoặc lệch, nói ngọng hoặc không nói được là biểu hiện của tâm tàng thần kém. Tâm nhiệt chất lưỡi và đầu lưỡi đỏ. Tuỳ theo từng chứng cụ thể có các loại thuốc riêng.
Một số bệnh có liên quan đến tạng tâm:
- Tâm dương hư: biểu hiện tim đập nhanh (tâm quý) khí đoản (hơi thở ngắn) hoặc khó thở, mặt trắng bệch, lưỡi nhợt nhạt, môi tím tái; hoặc mạch vi, tế, sợ lạnh hoa mắt chóng mặt. Nên dùng thuốc dưỡng tâm an thần, hoá đờm, bổ khí, bổ huyết.
- Tâm huyết bất túc: huyết thiếu, tim đập nhanh biểu hiện hay quên, mất ngủ, ngủ hay mộng, da xanh xao, lưỡi trắng nhợt, thân nhiệt thường hạ, nên dùng thuốc bổ huyết an thần.
- Tâm huyết ứ trệ: đau vùng tim, tim đập nhanh, mặt môi móng, tay thâm tím. Nên dùng thuốc hành khí hành huyết...
- Tâm hoả vượng: mặt đỏ, miệng đắng, niêm mạc miệng lưỡi phồng rộp, đầu lưỡi đỏ, tiểu tiện nóng đỏ, lòng bàn tay chân nóng... Nên dùng thuốc thanh nhiệt, kiềm lợi thuỷ, an thần.

2.2. Can.

Về giải phẫu học tạng can của y học cổ truyền được coi như gan, song về chức năng lại được thể hiện như sau:
+ Can tàng huyết:
Can là kho dự trữ huyết và điều tiết huyết cho cơ thể. Khi cơ thể ở trạng thái hoạt động phần lớn huyết được chuyển từ can tới tận tế bào, cung cấp dinh dưỡng cho hoạt động của tế bào. Khi nghỉ ngơi, khi nằm, khi ngủ, đại bộ phận huyết được trở về can. Nếu huyết không thu về can được sẽ xuất hiện triệu chứng bồn chồn, khó ngủ.
Chức năng can tàng huyết tốt, cơ thể khoẻ mạnh hồng hào do huyết sung túc, chức năng can tàng huyết kém cơ thể xanh xao, mệt mỏi, mắt trắng giá.
Các loại thuốc liên quan đến chức năng này là thuốc bổ huyết, bổ âm, hoạt huyết hành khí.
+ Can chủ cân:
Cân tức là gân, bao cơ, khớp, dây chằng... Can chủ cân kém, xuất hiện gân co duỗi khó khăn, các hệ thống dây chằng sa giãn, đi lại khó khăn, teo nhẽo cơ. Trẻ em chậm biết đi hoặc không đi được. Các loại thuốc có liên quan đến chức năng can chủ cân là thuốc bổ can thận, bổ huyết.
+ Can chủ sơ tiết:
Trước hết là nói đến chức năng sơ tiết mật, men của gan. Chức năng can chủ sơ tiết tốt sẽ giúp cho việc tiêu hoá của tỳ vị được tốt. Chức năng này kém sẽ dẫn đến chứng đầy bụng, ăn uống không tiêu, các chứng hoàng đảm (vàng da), hoặc sườn ngực đầy tức, phụ nữ bế kinh hoặc rối loạn kinh nguyệt.
Thuốc có liên quan đến chức năng này là thuốc sơ can giải uất, hành khí, hành huyết, lợi mật.
+ Can chủ nộ:
Can chủ về tức giận về tính nóng này cáu gắt. Ngược lại hay cáu giận hại can. Chức năng can chủ nộ liên quan mật thiết với chức năng chủ sơ tiết và can tàng hồn. Can không chủ được nộ sẽ làm cho việc sơ tiết của can kém đi, đồng thời ảnh hưởng nhiều đến những hoạt động tinh thần mà xuất hiện các chứng ngủ không yên giấc, nặng thì dẫn đến một số bệnh tinh thần. Các loại thuốc liên quan là thuốc an thần gây ngủ, bình can tiềm dương, trọng trấn an thần, sơ can giải uất...
+ Can khai khiếu ra mắt:
Khí của can được biểu hiện ra ở mắt. Khí của can tốt thì thị lực tốt, ngược lại mắt mờ, thị lực suy giảm. Nhìn vào mắt biết được trạng thái của can. Nếu mắt khô sáp, thâm quầng là can huyết bất túc, đỏ do sung huyết là can hoả thịnh, mắt vàng (âm hoàng hoặc dương hoàng) là can nhiệt, mắt trắng dã là can huyết hư.
Chức năng này có liên quan mật thiết đến chức năng can tàng huyết, tàng hồn và can chủ sơ tiết.
Thuốc có liên quan: thuốc bổ huyết nếu can bất túc, thuốc sơ can giải uất, lợi mật, thuốc thanh nhiệt (táo thấp, lương huyết...) thuốc bổ âm, bổ thận.
Một số bệnh lý của can:
- Can khí uất kết: thể hiện hai bên sườn đau tức, đau lồng ngực, đau bụng, phụ nữ kinh nguyệt không đều, viêm gan mạn tính, nên dùng thuốc sơ can giải uất, hành khí hành huyết.
- Can đởm thấp nhiệt: da vàng tiểu tiện vàng đỏ, sườn đau căng, phụ nữ khí hư bạch đới. Nên dùng thuốc thanh nhiệt táo thấp, giải độc, lợi thấp.
- Can phong nội động: ngã đột ngột, thậm chí hôn mê bất tỉnh, bán thân bất toại, miệng mắt méo xệch... Các chứng động kinh, bệnh ý (Histeria) cũng thuộc loại chứng bệnh này. Nên dùng thuốc bình can tắc phong hoặc trọng trấn an thần, sơ can giải uất...
- Can hoả thượng viêm: đầu đau căng, mặt đỏ, mắt đỏ, miệng đắng, lưỡi hồng, hay chảy máu cam (nục huyết). Nên dùng thuốc thanh nhiệt kiêm giải biểu. nhiệt chỉ huyết.

2.3. Tỳ.

Tỳ là cơ quan có chức năng tiêu hoá dinh dưỡng. Như vậy nếu theo chức năng của tỳ mà suy rộng thì tỳ bao gồm những cơ quan mang chức năng chứa đựng như vị (dạ dày) hấp thu như tiểu tràng, chức năng truyền tống như đại tràng, một số tuyến giúp cho tiêu hoá như tuyến nước bọt, tuyến tuỵ…
Một số chức năng tỳ:
+ Tỳ ích khí sinh huyết
Tỳ có chức năng ích khí (làm giàu phần khí), tức đóng vai trò tạo nguồn năng lượng cho cơ thể. Tỳ có vai trò tạo nguồn năng lượng cho cơ thể. Tỳ có vai trò tạo khí hậu thiên, khí lấy từ nguồn thuỷ cốc dinh dưỡng để cung cấp cho mọi hoạt động của ngũ tạng, lục phủ... Tỳ khoẻ mạnh, nguồn khí được cung cấp dồi dào khiến cho cơ thể khoẻ mạnh, chức năng này kém người mệt mỏi do chân khí kém, đoản hơi, vô lực, da xanh xao vì huyết hư. Loại thuốc có liên quan: thuốc kiện tỳ ích khí, thuốc hành khí, bổ huyết.
+ Tỳ chủ vận hoá:
Tỳ chủ vận hoá bao hàm ý nghĩa tiêu hoá, vận hoá tinh hoa của thuỷ cốc (thành phần dinh dưỡng thức ăn) và vận hoá nước trong cơ thể.
Thức ăn sau khi được tiếp thu ở vị, qua quá trình vận hoá biến thành các chất dinh dưỡng, chuyển tải đến tâm phế, thông qua kinh mạch tới toàn thân để nuôi dưỡng cơ thể. Mặt khác bộ phận thuỷ dịch trong cơ thể cũng hấp thu ở tỳ được tỳ vận hoá (tỳ vận hoá nước), cùng chuyển tải đến phế thận, bàng quang, góp phần duy trì sự cân bằng về chuyển hoá nước trong cơ thể. Nếu chức năng này của tỳ tốt thì việc cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể được tốt, thuỷ dịch trong cơ thể được điều hoà. Nếu chức năng này kém dinh dưỡng của cơ thể bị thiếu; đồng thời xuất hiện những chứng trạng phù nề đặc biệt phù ở bụng, phù của sự thiếu albumin; phù của tình trạng cơ thể đói cũng có khi xuất hiện tiết tả. Thuốc có liên quan: thuốc kiện tỳ ích khí, thẩm thấp lợi niệu, tiêu đạo...
+ Tỳ chủ nhiếp huyết (thống huyết):
Chức năng này chỉ rõ khả năng thu gọn huyết lưu thông trong lòng mạch. Chức năng này tốt, huyết vận hành thông suốt trong mạch. Ngược lại tỳ hư huyết loạn, huyết tràn ra ngoài lòng mạch (tức bị xuất huyết). Do vậy khi có các triệu chứng xuất huyết nói chung trong cơ thể, cần quan tâm đến chức năng này của tỳ. Thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ kiêm chỉ huyết, thuốc bổ huyết bổ âm...
+ Tỳ chủ về chân tay, cơ nhục:
Tỳ khoẻ cơ nhục nở nang béo tốt, hồng nhuận; tỳ yếu cơ thể gầy, chân tay cơ nhục teo nhẽo, trẻ em chậm biết đi, suy dinh dưỡng, còi xương. Những người bị bại liệt đều dẫn đến cơ thịt teo nhẽo, cũng cần được quan tâm điều trị tạng tỳ.
Các loại thuốc có liên quan: thuốc kiện tỳ ích khí, thuốc bổ huyết, bổ âm, bổ dương...
+ Khí tỳ chủ thăng (khí tỳ hướng lên trên, lên thượng tiêu):
Ở cơ thể khoẻ mạnh, tỳ khoẻ mạnh, khí tỳ luôn luôn hướng lên trên, có tác dụng giữ cho các phủ tạng trong cơ thể ở vị trí tự nhiên của nó. Nếu khí tỳ bị hư, trung khí bị hạ và hãm xuống hạ tiêu, làm xuất hiện chứng sa giáng. Ví dụ sa gan, sa tử cung, lá lách, thoát giang... Do vậy y học cổ truyền thường dùng các thuốc kiện tỳ ích khí, đặc biệt khí trung tiêu, gia thêm các vị thuốc mang tính chủ thăng đặc hiệu như thăng ma sài hồ, để nâng các tạng phủ bị sa về vị trí ban đầu. Thường dùng bài bổ trung ích khí để chữa các triệu chứng này.
Các loại thuốc liên quan đến chức năng này là thuốc kiện tỳ, ích khí, thuốc tiêu đạo, thuốc hành khí, thăng dương khí.
+ Tỳ khai khiếu ra miệng:
Sự thể hiện của tạng tỳ ra ở miệng; tỳ khoẻ, miệng muốn ăn, ăn biết ngon biết dỗi, tiêu hoá tốt. Tỳ yếu thể hiện chán ăn, ăn không ngon miệng, ăn không tiêu, bụng hay đầy trướng. Những thuốc liên quan: thuốc kiện tỳ, tiêu đạo, thuốc mang tính chất kích thích tiêu hoá...
+ Một số bệnh lý của tỳ:
- Khí tỳ hư nhược: biểu hiện kém ăn hấp thu kém, người gầy, da xanh, vàng, đại tiện thường lỏng, bụng trướng đầy hoặc xuất hiện các chứng sa như thoát giang, trĩ... Nên dùng thuốc kiện tỳ ích khí, hành khí, tiêu đạo.
- Tỳ dương hư: ăn uống kém, bụng sôi, trướng đầy, đại tiện lỏng, chân tay lạnh đôi khi co quắp, thân thể nặng nề, phù thũng. Nên dùng thuốc kiện tỳ kiêm bổ dương, thuốc hoá thấp.
- Hàn thấp khuẩn tỳ: bụng ngực đầy, trướng không muốn ăn, đầu nặng, toàn thân mệt mỏi đau ê ẩm, đại tiện lỏng. Nên dùng thuốc hoá thấp kiêm hành khí.
- Tỳ thấp nhiệt: biểu hiện vàng da, bụng đầy trướng không muốn ăn, đại tiện táo kết, tiểu tiện vàng đỏ... Nên dùng thuốc thanh nhiệt, táo thấp, lợi thuỷ, nhuận tràng...

2.4. Phế.

Phế giống như cái lồng, màu hồng nằm trong lồng ngực. Về mặt giải phẫu học, phế chính là hai lá phổi. Tuy nhiên về chức năng phế biểu hiện ở một số chức năng sau đây:
+ Phế chủ khí:
Phế có chức năng hô hấp đóng vai trò tiếp nhận dưỡng khí (khí trời) sau đó diễn ra quá trình khí hoá (quá trình trao đổi thải thân khí và hấp thụ dưỡng khí, tức là quá trình kết hợp oxy với hemoglobin và thải ra CO₂). Như vậy phế chủ việc cung cấp dưỡng khí cho các tạng phủ và các tổ chức trong cơ thể.
+ Phế trợ tâm, chủ việc trị tiết. Trị tiết là quản lý rành mạch sự hoạt động có quy luật của các tạng phủ, đồng thời giúp tâm tàng thần tốt.
+ Phế hợp bì mao:
Tức phế có công năng đóng mở tấu lý (lỗ chân lông) ở da; chữ hợp chỉ ra chức năng "đóng" tấu lý.
Bình thường lỗ chân lông đóng mở để điều tiết thân nhiệt và thải trừ một phần cặn bã của sự chuyển hoá "mồ hôi". Khi lạnh lỗ chân lông đóng lại, khi nóng thì mở ra. Sự đóng mở đó được phế chi phối. Chính vì vậy công năng của phế có liên quan đến da và lông. Nếu khí phế sung túc thì quá trình đóng mở nói trên được tiến hành bình thường. Ngược lại có yếu tố ngoại tà (hàn tà, nhiệt tà) xâm phạm vào cơ thể thông qua tấu lý sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến phế, gây ra các chứng phế hư hoặc phế thực, làm cho cơ thể mắc các chứng ho, đờm, suyễn tức... và ngược lại chính những bệnh từ tạng phế cũng ảnh hưởng trực tiếp đến khai hợp tấu lý ở phần biểu. Bệnh viêm phế quản mạn tính do khí phế kém, lâu ngày tấu lý thường thô to, lỗ chân lông thường xuyên giãn mở làm cho mồ hôi nhiều, da thô. Thuốc có liên quan: thuốc giải biểu, chỉ ho, hoá đờm, bình suyễn, thuốc bổ khí.
+ Phế chủ thông điều thuỷ đạo:
Phế có chức năng điều tiết phân thuỷ dịch thông suốt trong cơ thể, liên quan đến chức năng tỳ vận hoá nước. Phế được coi là nguồn nước trên giúp cho thận thuỷ thanh lọc được bình thường. Nếu chức năng này kém dẫn đến việc điều hoà thuỷ đạo trì trệ gây ứ đọng nước, dẫn đến phù nề. Thuốc có liên quan: thuốc kiện tỳ, lợi thuỷ thẩm thấp, hoá đờm, chỉ ho.
+ Khí phế chủ túc giáng:
Khí phế luôn có khuynh hướng đi xuống dưới, giúp cho chức năng thông điều thuỷ đạo. Nếu khí phế đi lên (khí phế thượng nghịch), gây ra các chứng ho, hen, suyễn tức. Thuốc có liên quan: thuốc hành khí, hạ khí, thuốc chỉ ho, bình suyễn, hoá đờm.
+ Khí phế chủ thanh:
Âm thanh, tiếng nói của con người được ảnh hưởng trực tiếp bởi khí của phế. Khí phế tốt tiếng nói khoẻ mạnh, khí phế kém tiếng nói trầm khàn, yếu ớt hoặc nói không ra tiếng. Trường hợp bị câm bẩm sinh ngoài nguyên nhân não cũng nên lưu ý đến nguyên nhân khí phế chủ thanh.
+ Phế khai khiếu ra mũi:
Trạng thái của phế được thể hiện ra qua đường mũi. Phế tốt hơi thở qua mũi nhịp nhàng, phế nhiệt hơi thở qua mũi nóng, mũi đỏ... Phế tắc cánh mũi phập phồng, phế hư hơi thở ngắn (đoản khí) cánh mũi xẹp, hay thở dài. Có các loại thuốc thích hợp theo từng chứng cụ thể. Ví dụ phế nhiệt dùng thuốc thanh nhiệt, tân lương giải biểu...
Một số bệnh lý của phế:
- Phong tà nhập phế: có thể biểu hiện sợ lạnh, sốt cao, đau đầu, ho, sổ mũi, đau toàn thân. Nên dùng thuốc giải biểu kiêm chỉ ho.
- Phế âm hư: ho, ít đờm, trong đờm có tia máu, lưỡi quyên hồng, sốt về chiều nóng âm ỉ trong xương. Nên dùng thuốc bổ âm, kiêm chỉ ho, hoá đờm chỉ huyết.
- Đờm phế thấp nhiệt: ho, suyễn đờm đặc, vàng, mùi hôi, đau ngực, sốt. Nên dùng thuốc hoá đờm hàn chỉ ho bình suyễn, thuốc thanh nhiệt...
- Khí phế hư: ho nhiều, đờm nhiều mà loãng, đoản hơi, ra nhiều mồ hôi, tiếng nói yếu, người mệt mỏi. Nên dùng thuốc bổ khí, chỉ ho, hoá đờm, thuốc cố biểu liễm hãn...

2.5. Thận

Thận là một trong ngũ tạng được y học cổ truyền đánh giá cao, là một thái cực trong nhân thể. Là vị trí tượng hoả sau tâm là quân hoả. Trạng thái con người như thế nào phần lớn do thận quyết định. Thận có chức năng tác cường sự khôn khéo, sáng tạo. Thận có ý nghĩa về sự phát dục, trưởng thành, thọ yếu của con người. Về giải phẫu, thận là hai quả thận như quan niệm của y học hiện đại. Một số chức năng của thận.
+ Thận tàng tinh:
Tinh tiên thiên có sẵn trong bào thai, có nguồn gốc từ cha mẹ, trong đó có tinh sinh dục. Tinh hậu thiên có nguồn gốc từ dinh dưỡng là tinh hoa của tuỷ cốc. Sau khi nuôi dưỡng cơ thể, phần dư thừa được tích ở thận. Như vậy không những thận tàng tinh của bản thân nó mà còn tàng tinh của lục phủ ngũ tạng. Chức năng này tốt cơ thể khoẻ mạnh, hoạt động hoạt bát dẻo dai, sống lâu. Chức năng này kém cơ thể mệt mỏi, sinh lý giảm hoặc vô sinh... Thuốc có liên quan: thuốc bổ thận âm, thuốc bổ thận dương, thuốc bổ âm...
+ Thận chủ cốt, sinh tuỷ:
Thận chủ về xương cốt, liên quan đến việc cấu tạo sức khoẻ vững vàng hoặc bệnh tật của xương cốt. Các bệnh về xương như đau nhức xương khớp, đau lưng, đau răng đều liên quan đến thận.
Thận sinh tuỷ, tuỷ tạo huyết, tuỷ dưỡng cốt, cốt và tuỷ liên quan mật thiết. Do vậy các bệnh về tuỷ (suy tuỷ, lao tuỷ...) về huyết (huyết hư) cần nghĩ tới tạng thận, dùng thuốc vào thận. Mặt khác tuỷ có liên quan đến não, “Não vi tuỷ chi hải” não là bể của tuỷ-ý nói tuỷ là một phần rất nhỏ của não sinh ra; do vậy thận và não có liên quan mật thiết. Điều đó có nghĩa là khi chữa bệnh não cũng cần nghĩ tới thận, và ngược lại. Các loại thuốc liên quan: thuốc bổ thận âm, dương, bổ huyết...
+ Thận chủ thuỷ:
Thận chủ về điều tiết thanh lọc phần nước trong cơ thể. Phần cặn bã được dồn xuống bàng quang. Chức năng này có liên quan đến chức năng chủ túc giáng, thông điều thuỷ đạo của phế ở đây thận đóng vai trò “nguồn nước dưới”, mặt khác cũng liên quan đến chức năng “vận hoá nước” của tỳ, “chủ huyết mạch” của tâm. Nếu chức năng này kém sẽ gây ra ứ đọng nước trong cơ thể làm cho người bị phù nề, phế bị chèn ép, gây khó thở. Vì vậy muốn chức năng này tốt, khí phế phải thông. Các loại thuốc liên quan: thuốc thẩm thấp lợi niệu, thuốc hoá đờm, chỉ ho bình suyễn.
+ Thận chủ nạp khí:
Thận đóng vai trò hô hấp ở giai đoạn đưa không khí vào (nạp khí). Thận chủ nạp khí kém gây khó thở, đoản hơi, suyễn tức. Như vậy chức năng này có liên quan mật thiết đến chức năng chủ khí của phế. Do vậy, những người mắc bệnh viêm phế quản mãn, viêm phổi... muốn được điều trị tốt phải cố thận. Trên thực tế đó là mối quan hệ giữa các hormon của tuyến thượng thận (adrenalin, noradrenalin), những hormon này có tác dụng làm giãn cơ trơn của khí phế quản. Ở nồng độ nhất định nó giúp cho cơ trơn nói trên thở giãn bình thường, để không khí vào phế dễ dàng (thận chủ nạp khí). Khi mắc bệnh phế lâu ngày, cơ trơn khí quản co thắt nhiều làm hormon trên bị tiết ra quá mức; do vậy mà chức năng thượng thận kém đi. Vì vậy mà phải cố thận kiêm thanh phế. Thuốc có liên quan: thuốc bổ thận dương, bổ khí hóa đờm, bình suyễn.
+ Thận chủ mệnh môn:
Mệnh môn chỉ tướng hoả, long hoả hàm ý chỉ thận dương, tạo ra sức nóng cho cơ thể, duy trì thân nhiệt hằng định 37°C. Nếu chức năng này kém chân tay lạnh, sợ gió, sợ nước, thân nhiệt thường thấp hơn 37°C. Thận dương cung cấp sức nóng cho tỳ dương (thận dương ôn hoá tỳ dương). Nếu chức năng này kém, không ôn hoá tỳ dương sẽ dẫn đến đầy bụng, sôi bụng tiết tả và thường mắc bệnh ngũ canh tả - đi tả vào canh thứ 5 (tương đương với bệnh viêm đại tràng mạn), kèm theo đó là tiêu hoá bất chấn, kém ăn.
Thuốc có liên quan: thuốc bổ thận dương, thuốc hóa thấp, ôn trung, thúc kiện tỳ, tiêu đạo.
+ Thận khai khiếu ra tai và nhị âm (tiền âm, hậu âm)
Sự thể hiện của thận ra tai và nhị âm; thận khí kém tai ù, kém quá tai điếc. Người già hay ù tai, điếc tai là do thận khí kém. Do vậy thính lực kém phải chữa thận. Mặt khác thận kém còn biểu hiện tiểu tiện bí đắt hoặc không cầm hoặc tiểu dầm hoặc di tinh... hoặc đại tiện lỏng hoặc táo kết... Thuốc có liên quan đến chức năng này: thuốc phương hướng khai khiếu, thuốc bổ thận, thuốc cố tinh sáp niệu.
Một số bệnh lý của thận:
- Thận dương hư nhược: lưng đau, gối đau mỏi, chân lạnh, táo tiết, liệt dương, vô sinh. Nên dùng thuốc bổ thận dương kiêm bổ khí.
- Thận âm bất túc: tai ù, đau đầu, mờ mắt ra mồ hôi trộm, tiểu tiện đục. Nên dùng thuốc bổ âm kiêm liễm hãm, lợi niệu.
- Thận khí hư: đau lưng, chân tay vô lực, tiểu nhiều, tiểu dầm, di tinh, đoản hơi, suyễn tức. Nên dùng thuốc bổ dương, bổ khí, thuốc cố tinh sáp niệu.

III. PHỦ

Phủ là những cơ quan có chức năng thu nạp chuyển giao và tống thải.
Lục phủ (6 phủ chính): đởm, vị, tiểu tràng, đại tràng, bàng quang, tam tiêu. Phủ kỳ hằng: những phủ có công năng khác thường được gọi là phủ kỳ hằng. Não, xương tuỷ, mạch, tử cung... là phủ kỳ hằng.

3.1. Đởm (Mật).

Đởm là phủ trung tinh "Trung tinh chi phủ" trong chứa chất dịch tính thanh khiết được gọi là mật; liên quan mật thiết với can về chức năng sơ tiết “khí dư của can tiết vào đởm tụ lại mà thành tinh". Do đởm tàng chất tinh này, nó trở thành một phủ đặc biệt trong lục phủ. Tính của đởm cương trực, công năng quyết đoán. Đởm giữ chức năng trung chính, tức giữ thăng bằng, chuẩn xác đối với sự hoạt động của các tạng phủ khác. Đởm liên quan mật thiết đến can để thực hiện chức năng sơ tiết “can hợp đởm, đởm giả trung tinh chi phủ”. Do chức năng quyết đoán của đởm, đởm có thể duy trì và đảm bảo sự vận hành bình thường của khí huyết, loại trừ những ảnh hưởng không tốt đến tinh thần. Khi chức năng này suy kém sẽ là nguyên nhân làm cho tinh thần bị tổn thương. Khi chức năng này kém sẽ là nguyên nhân làm cho tinh thần bị tổn thương. Nếu đởm khí suy nhược dẫn dần dẫn đến bệnh tật cho cơ thể. Ví dụ can đởm uất trệ, thấp nhiệt bị ngưng đọng, làm cho sơ tiết mật bị không bình thường xuất hiện các bệnh hoàng đản (vàng da); nếu đởm hoả, chức năng can dương thịnh làm cho bệnh nhân hay cáu giận đau đầu, cao huyết áp.
Thuốc có liên quan: thuốc thanh nhiệt táo thấp, hành khí giải uất, sơ can lý khí, thuốc lợi thấp...

3.2. Vị.

Chức năng thu nạp và làm nhừ thuỷ cốc, sơ bộ tiêu hoá thức ăn. Công năng này được gọi dưới tên chung là vị khí. Vị khí phải tuyên hoà tuyên giáng (gọi là vị khí hoà giáng), tức là nói tới trạng thái bình thường của vị; trên cơ sở đó vị có thể tiêu hoá thuỷ cốc và chuyển đẩy xuống tiểu tràng. Nếu không sẽ gây ra hiện tượng lưu trệ thức ăn, vị khí thương nghịch gây nôn mửa. Do đó, “vị khí tràng, ngũ tạng đều trống rỗng”. Các chức năng của vị kém xuất hiện các chứng đau bụng, sôi bụng, đầy trướng, nuốt chua, nôn lợm (vị thực tích) hoặc sôi bụng nôn ra đờm dãi (vị hàn); hoặc đau bụng, miệng khô khát, nuốt chua, hôi miệng, niêm mạc miệng, lợi sưng thũng, sụt lợi (vị nhiệt)... Khi quan sát bệnh tình thường lấy công năng của vị làm thuốc đo cho tình trạng sức khỏe của cơ thể “Hữu vi khí tác sinh, vô vị khí tắc tử”.
Thuốc có liên quan: thuốc kiện vị, tiêu đạo, hành khí, giáng nghịch thanh nhiệt.

3.3. Tiểu tràng.

Tiểu tràng (ruột non) có chức năng tiếp nhận thức ăn đã được sơ bộ tiêu hoá từ vị chuyển xuống, đồng thời tiến hành quá trình phân hoá vật chất để thu lấy chất thanh (chất dinh dưỡng, chất bổ, nước, muối khoáng, vitamin) cho cơ thể và thải trừ cặn bã xuống đại tràng; tức là quá trình thăng thanh giáng trọc. Phần thủy dịch của cặn bã được qua thận, xuống bàng quang thành nước tiểu. Như vậy tiểu tràng có quan hệ nhất định với việc hình thành đại tiểu tiện. Tiểu tràng cũng quan hệ mật thiết với tâm. Vì chính các chất dinh dưỡng mà tiểu tràng hấp thu được chuyển vào huyết mà tâm chủ huyết mạch.
Thuốc có liên quan đến tiểu tràng: thuốc thanh nhiệt táo thấp, kiện tỳ, tiêu đạo...

3.4 Đại tràng

Đại tràng (ruột già) có chức năng tiếp nhận chất cặn bã từ tiểu tràng chuyển xuống; đồng thời làm nhiệm vụ tống thải chất cặn bã ra ngoài. Những chất cặn bã tiểu tràng chuyển xuống đã được đại tràng hấp thu một phần nước trong đó. Nếu chức năng hấp thu phần nước này kém do đại tràng hư hàn, xuất hiện sôi bụng đau bụng, phân nát lỏng, ngược lại đại tràng thực nhiệt, việc hấp thu phần nước quá mức dẫn đến chứng táo kết. Táo kết lâu ngày dẫn đến chứng nhiệt kết bàng lưu (phân tròn rắn có chất nhầy bao quanh). Kinh mạch của đại tràng có liên quan đến phế; do đó bệnh phế có ảnh hưởng đến đại tràng, phế đoản hơi đại tràng táo bón và ngược lại đại tràng tiết tả phế đoản khí.
Thuốc có liên quan: thuốc thanh nhiệt táo thấp, thuốc kiện tỳ, tiêu đạo, tả hạ, cố sáp.

3.5. Bàng quang.

Bàng quang có chức năng chứa đựng và thải trừ nước tiểu. Phần thủy dịch sau khi qua thận được phân thanh tiết trọc. Phần thanh trở lại cơ thể, phần trọc (phần đục, bã) đi vào bàng quang thành nước tiểu. Công năng này còn gọi là công năng khí hoá, có liên quan mật thiết đến thận dương.
Một số bệnh của bàng quang: bàng quang thấp nhiệt, tiểu tiện vàng đỏ, buốt dắt, các bệnh sỏi bàng quang.
Thuốc có liên quan: thuốc lợi thuỷ thấm thấp, thanh nhiệt táo thấp, thanh nhiệt giải độc.

3.6. Tam tiêu.

Tam tiêu chỉ thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu. Có một số quan niệm về tam tiêu như sau:

3.6.1. Tam tiêu khái quát tạng phủ, chia 3 vùng trong cơ thể:

Thượng tiêu chứa tâm phế.
Trung tiêu chứa tỳ vị.
Hạ tiêu chứa thận, bàng quang.
Công năng: thượng tiêu chủ phân bố tông khí (dinh khí, vệ khí), trung tiêu chủ hấp thu tiêu hoá vật chất, hạ tiêu chủ bài tiết. Tam tiêu là tổng hợp khí của lục phủ ngũ tạng, kinh lạc, dinh vệ nội ngoại tả hữu, thượng hạ. Tam tiêu thông suốt thì tả hữu nội ngoại, thượng hạ đều thông.

3.6.2. Tam tiêu là biệt sứ của nguyên khí là đường thuỷ cốc là nơi đầu nguồn và cuối nguồn của dương khí. Thượng tiêu chủ thu nạp thuỷ cốc, phân bố khí thuỷ cốc đến toàn thân, ôn dưỡng bì phu, cơ nhục, xương khớp. Trung tiêu làm nhu thuỷ cốc, chưng tân dịch. Hạ tiêu chủ phân biệt thanh trọc.

3.6.3. Từ miệng trên dạ dày đến cuống họng là thượng tiêu, từ miệng trên dạ dày đến miệng dưới dạ dày là trung tiêu, từ miệng dưới dạ dày đến hậu môn là hạ tiêu (quan niệm của Hải Thượng Lãn Ông). 
Dù có nhiều quan niệm khác nhau về tam tiêu; song một điểm chung là tam tiêu đều chỉ 3 vùng thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu, mỗi vùng chứa những cơ quan tạng phủ tương ứng và đều cho rằng tam tiêu là phủ thuộc dương nơi tiếp giáp với dương khí của thận phân bố đi toàn cơ thể. Tam tiêu có liên quan đến nhiều chức năng của nhiều bộ phận trong cơ thể. Nó không phải là một cơ quan độc lập.

IV. PHỦ KỲ HẰNG

Phủ kỳ hằng là những phủ mang tính chất khác thường, bao gồm não, tuỷ xương, mạch đởm, tử cung. Phủ kỳ hằng không giống với lục phủ mang tính chất chuyển hoá nói chung mà chúng có công năng đặc hiệu là tàng tinh, tàng âm tinh, tàng mà không tả. Trong đó đởm cũng thuộc loại này.

4.1. Não.

Não nằm trong hộp sọ, thông với tuỷ, “Não vi tuỷ chi hải”, tuỷ chỉ là một phần nhỏ của não. Não có liên quan mật thiết đến xương tuỷ của toàn thân. Nếu não tuỷ tốt, sinh lực dồi dào khả năng làm việc tốt. Não tuỷ không tốt làm cho đau đầu ù tai hoa mắt mệt mỏi, vô lực. Não là cơ quan hết sức trọng yếu.

4.2. Tuỷ.

Tuỷ sinh ra do thận, tàng ở trong xương là chất dinh dưỡng xương. Não và tuỷ đều chứa trong khoang xương song có liên quan toàn thân. Những chất dinh dưỡng cũng được dẫn vào nuôi dưỡng não tuỷ. Nếu do nguyên nhân nào đó mà tổn thương dịch, cũng làm giảm tân dịch của não tuỷ. Do vậy nếu thương tân vong dịch thì co duỗi gân cốt khó khăn tai ù, tuỷ thiếu.

4.3. Xương.

Xương là bộ khung của cơ thể. Xương rắn chắc giữ cho hình thể con người khoẻ đẹp. Xương được nuôi bởi tuỷ. Tính bền chắc của xương là do tuỷ quyết định. Nếu tuỷ hư hao, xương thiếu sự dinh dưỡng dẫn đến còi xương, giòn xương.
Như vậy não, tuỷ, xương có liên quan mật thiết với thận sinh tuỷ, tuỷ dưỡng cốt, cốt tàng tuỷ, tuỷ thông với não, tất cả đều thuộc phạm vi thận chủ.

4.4. Mạch.

Mạch là đường vận hành khí huyết liên quan mật thiết với tâm phế. Tâm chủ huyết, phế chủ khí. Mạch vận tải khí huyết; cho nên chúng có quan hệ tương hỗ, hợp tác để hoàn thành công năng vận hành tuần hoàn khí huyết. Mạch được phân bố toàn thân, có hai công năng chủ yếu làm cho khí huyết tuần hoàn theo một chiều hướng nhất định và vận chuyển tinh hoa của thuỷ cốc dinh dưỡng toàn thân, vận hành của huyết mạch dựa vào khí cho nên “Mạch là phủ của huyết lấy khí làm gốc” “Khí hành tắc huyết hành, khí trệ tắc huyết ứ”. Bệnh huyết đa phần do khí; bệnh khí cũng do huyết. Bởi vậy sự vận hành của mạch không những phản ánh sự nhiễu ít của huyết mà còn phản ánh mối quan hệ bình thường giữa khí và huyết, đồng thời sự vận hành của mạch cũng quan hệ đến sự hoạt động của phủ tạng. Vì vậy y học cổ truyền dùng phương pháp “bắt mạch” để chẩn đoán bệnh tình trong cơ thể; coi đó là phương pháp quan trọng.

4.5. Tử cung.

Tử cung còn gọi là nữ tử bào, bào cung, có công năng chủ về kinh nguyệt và dưỡng dục thai nhi. Tử cung có quan hệ với thận. Nhâm mạch, xung mạch đều khởi đầu từ bào cung. Do vậy tử cung cùng thận và mạch xung nhâm đều có quan hệ tương hỗ. Thận khí vượng bào cung phát dục tốt, kinh nguyệt tốt đầy đủ giúp cho khả năng thụ thai tốt; ngược lại thận khí và mạch xung nhâm kém dẫn đến bế kinh khả năng sinh con kém, hoặc vô sinh.

V. MỐI QUAN HỆ TẠNG PHỦ

Giữa tạng và phủ trong cơ thể có quan hệ mật thiết với nhau. Sự liên quan đó thể hiện ra ở mối quan hệ tạng với tạng, tạng với phủ và phủ với phủ. Điều đó phản ánh mối tương quan biểu lý, hữu cơ vì cơ thể là một khối thống nhất.

5.1. Sự liên quan giữa tạng với tạng.

- Sự liên quan giữa can - tâm - tỳ:
Can tâm tỳ ba tạng liên quan với nhau về mặt huyết mạch, tâm chủ huyết, can tàng huyết, tỳ thống huyết. Tỳ khí vượng, chức năng thống huyết tốt, can huyết sung túc, tâm huyết dồi dào, vận hành điều hoà thông suốt trong lòng mạch. Tỳ khí nhược, can huyết bất túc, tâm hồi hợp (tâm quý), loạn nhịp, mất ngủ, tâm thần suy nhược khiến kém ăn, bụng đầy trướng, chân tay mệt mỏi rã rời.
- Sự liên quan giữa can và tỳ:
Tỳ ích khí, sinh huyết, can tàng huyết. Tỳ sinh huyết tốt giúp cho can tàng huyết tốt, cơ thể đầy đủ huyết dịch khoẻ mạnh, ngược lại can sơ tiết tốt giúp cho tỳ tiêu hoá tốt.
- Sự liên quan giữa can và thận:
Khí của tạng can luôn có khuynh hướng cường thịnh “can dương cang” song luôn được thận thuỷ chế ước “thuỷ chế hoả”. Sự thuỷ chế ước đó tốt giúp cho can khí bình thường. Nếu thận âm bất túc, thuỷ không chế được hoả dẫn đến can dương thượng cang, xuất hiện các chứng đau đầu hoa mắt chóng mặt tai ù, đau lưng, di tinh. Do đó bổ chân âm, bổ thận âm cũng là tư dưỡng khí của can.
- Sự liên quan giữa tỳ và phế:
Tỳ hấp thu vận hoá tinh hoa của thức ăn, chất dinh dưỡng của thuỷ cốc được nhập vào huyết mạch mà dồn lên phế. Tại phế quá trình khí hoá sẽ diễn ra. Tại phế khí trời kết hợp với khí dinh dưỡng mà thành Tông khí. Như vậy giữa tỳ và phế cùng thực hiện một chức năng tạo khí, tạo ra năng lượng cho cơ thể. Trong đó tỳ thực hiện giai đoạn 1, phế thực hiện giai đoạn 2. Hai giai đoạn này gắn bó với nhau tạo thành một chuỗi liên tục, không thể tách rời. Do đó nếu khí của tỳ hư cũng làm khí phế hư, xuất hiện chứng đoản hơi ho hen. Ngược lại khí phế không thông, không chủ được “túc giáng” không điều hoà được thuỷ đạo, gây phù nề.
- Sự liên quan giữa phế và thận:
Phế và thận liên quan về hô hấp. Phế chủ khí, thận chủ nạp khí. Hai tạng cùng hiệp đồng làm chức năng hô hấp. Nếu thận thuỷ bất thông, phế tắc, khó thở, ngược lại phế không thông, tiểu tiện bí dắt… thận âm bất túc, cũng dẫn đến phế âm hư xuất hiện chứng trào nhiệt hô khan.
- Sự liên quan giữa tỳ và thận:
Tỳ chủ vận hoá tiêu hoá, song chức năng này phải được giúp đỡ của thận dương. Thận dương kém làm tỳ không vận hoá được “thận dương ôn hoá tỳ dương”.

5.2. Sự liên quan giữa phủ với phủ

Giữa các phủ liên quan về ba phương diện hấp thu, chuyển hoá tiêu hoá, bài tiết.
- Sự liên quan giữa vị, tiểu tràng và đởm, 3 phủ này liên quan với nhau về mặt tiêu hoá. Vị chứa đựng và làm nhừ thức ăn, đởm sơ tiết mật giúp tiêu hoá, tiểu tràng hấp thu dinh dưỡng.
- Tiểu tràng và đại tràng liên quan về chức năng, hấp thu dinh dưỡng, nước và muối khoáng… đồng thời bao gồm chức năng tống thải cặn bã.
- Đại tràng và bàng quang liên quan về phương diện bài tiết cặn bã.
Nếu một mối quan hệ giữa các phủ không được điều hoà sẽ dẫn tới rối loạn chức năng các phủ.

5.3. Sự liên quan giữa phủ và tạng

Giữa phủ và tạng liên quan biểu lý từng cặp.
- Giữa tỳ và vị liên quan về chức năng tiêu hoá, hấp thụ dinh dưỡng cho cơ thể, có ý nghĩa về tạo nguồn khí huyết cho cơ thể.
- Giữa tâm và tiểu tràng liên quan về phương diện hấp thu dinh dưỡng, làm huyết sung túc, tâm chủ về huyết mạch, chuyển tải chất dinh dưỡng đi toàn cơ thể.
- Giữa can và đởm liên quan về chức năng sơ tiết (mật men) giúp cho tiêu hoá thức ăn.
- Giữa phế với đại tràng liên quan về phương diện khí hoá. Phế khí kém làm đại tràng khô kiệt gây táo bón, và ngược lại khí đại tràng kém gây đoản hơi đoản khí ở phế.
- Giữa thận và bàng quang liên quan về chức năng thanh lọc thuỷ dịch; làm cân bằng chất điện giải, thải chất trọc lấy chất thanh, “thăng thanh giáng trọc”.

VI. TINH KHÍ THẦN

Tinh khí thần là ba vật chất cơ bản của sinh mệnh con người, tuy có những điểm khác nhau nhưng trên thực tế nó là bộ phận chính thể không thể tách rời. Tinh là gốc của thận, có tinh mới có thận, do đó “Tích tinh khả dĩ toàn thần”, “Tinh thương tắc thận vô”. Tinh là mẹ của khí, “Tinh hư tắc vô khí nhân vô khí tắc tử” như vậy tinh sinh ra khí, không có khí người không sống được. “Nhân vô khí tắc tử”; do đó mà tinh khí thần không thể phân chia, chúng cùng tồn tại và cùng diệt vong.

6.1. Tinh.

Tinh là vật chất khởi nguồn của sinh mệnh, do tiên thiên đưa lại, còn gọi là tinh tiên thiên “Vạn vật hoá sinh, tất tùng sinh thuỷ”. Trong tinh tiên thiên có tinh sinh dục, do có tinh mà con người được hình thành. Con người được dinh dưỡng bởi thức ăn, vật chất dinh dưỡng từ thức ăn cũng được gọi là tinh, và là tinh hậu thiên. Tinh hậu thiên sẽ nuôi dưỡng tinh tiên thiên và nuôi dưỡng lục phủ ngũ tạng bì mao gân cốt… Còn thừa được tàng trữ lại ở thận “thận tàng tinh”. Tinh bao gồm: tinh huyết, và tân dịch.

6.1.1. Tinh là cơ sở vật chất của nguyên khí của con người:

Do vậy tinh còn gọi là “chân âm” và “nguyên âm”. Tinh không những có chức năng phát dục mà còn có khả năng tạo lực sinh trưởng phát triển, nâng cao sức đề kháng, chống lại những yếu tố gây bệnh cho cơ thể.
Nếu tinh thịnh vượng cơ thể khoẻ mạnh, không bị mắc bệnh, ngược lại tinh hư âm hư, dường khí sẽ hư tổn cơ thể dễ thụ cảm ngoại tà gây bệnh tật.

6.1.2. Huyết

- Huyết là vật chất sắc đỏ, là tinh hoa của thức ăn, được tạo thành thông qua tác dụng khí hoá. Nguồn gốc và sinh hoá của huyết bắt nguồn từ trung tiêu, từ tỳ vị. Quá trình vận hoá tạo huyết có thể xem sơ đồ sau:
Chương II - MỘT SỐ HỌC THUYẾT Y HỌC CỔ TRUYỀN - HỌC THUYẾT TẠNG TƯỢNG
- Công năng của huyết
Trong huyết có các chất dinh dưỡng, vận hành trong mạch đi nuôi toàn thân. Sự hoạt động của ngũ quan, cửu khiếu, lục phủ ngũ tạng… đều do huyết. Ví dụ mắt nhìn được, tai nghe được, chân bước được… đều có sự cung cấp của huyết. Nếu sự cung cấp đó suy giảm sẽ dẫn đến sự tê mỏi các bộ phận, sự ngưng tắc của huyết dẫn đến sự tê liệt mọi hoạt động.

6.1.3. Tân dịch:

- Tân là một trong những dịch thể của cơ thể cũng có nguồn gốc từ thức ăn. Chất tân theo khí của tam tiêu mà đổ vào giữa tấu lý và bì phu cơ nhục, để ôn dưỡng cơ nhục làm nhuận da lông. Tân đổ vào tấu lý làm thành mồ hôi, hạ xuống bàng quang làm thành nước tiểu. Do vậy nếu tấu lý bị đóng, tân sẽ dồn hầu hết xuống bàng quang, làm tăng lượng nước tiểu. Ngược lại ra nhiều mồ hôi nước tiểu sẽ giảm. Điều đó được giải thích bởi hiện tượng nhiều mồ hôi ít nước tiểu mùa hạ, nhiều nước tiểu ít mồ hôi về mùa đông. Do vậy nếu chất tân trong cơ thể bị hao tổn thì ít mồ hôi và nước tiểu, cần dùng thuốc sinh tân chỉ khát. Ngược lại quá trình đó bài xuất rất nhiều cũng làm tổn thương đến chất tân trong cơ thể, cần dùng thuốc thu liễm cố sáp.
- Dịch cũng là chất được hoá sinh từ thuỷ cốc, dẫn đến các khớp, não tuỷ, làm nhuận xương khớp, bổ ích cho não tuỷ.
- Tân và dịch có cùng nguồn gốc; nhưng phân biệt về tính chất và tác dụng. Tân là chất trong, nhẹ theo khí tam tiêu đến tấu lý, còn dịch là chất đặc nhớt đi vào các khớp làm trơn nhuận các khớp. Như vậy tân chủ biểu, dịch chủ lý. Tân ôn nhuận bì phu, dịch trơn nhuận xương khớp, mềm nhuận xoang khiếu bổ não tuỷ.

6.1.4. Sự hoàn lưu tân dịch:

Như ta đã biết tân dịch được phân bố bì phu tấu lý, cân cốt não tuỷ để làm nhuận dưỡng các cơ quan. Nếu ở các bộ phận không dùng hết thuỷ dịch đó bị dư thừa thì chúng được thấm thấu trở lại các tông lạc để quy về kinh mạch, giữ cho thể dịch trong cơ thể ở trạng thái cân bằng.

6.2. Khí.

Theo quan niệm của đông y, khí bao hàm hai ý nghĩa, thứ nhất chỉ vật chất rất nhỏ như khí của thuỷ cốc, khí hô hấp, hai là năng lượng hoạt động của các tổ chức như khí của ngũ tạng, lục phủ, khí của kinh mạch. Khí được chia ra khí tiên thiên và khí hậu thiên. Khí tiên thiên “nguyên khí”, là khí được hình thành từ bào thai, được truyền từ cha mẹ đến. Còn khí hậu thiên có nguồn gốc từ khí trời, khí đồ ăn. Khí hậu thiên có chức năng nuôi dưỡng khí tiên thiên và là năng lượng cung cấp cho tạng phủ hoạt động.

6.2.1. Nguyên khí:

Nguyên khí bao gồm khí nguyên âm, nguyên dương được hoá sinh từ tinh tiên thiên nên gọi là nguyên khí. Nguyên khí phát nguồn từ thận, tàng, ở đan điền, thông qua tam tiêu, vận hành tới toàn cơ thể, cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động của lục phủ ngũ tạng, coi như “suối nguồn”, làm động lực cho các quá trình sinh hoá trong cơ thể.

6.2.2. Dinh khí:

Dinh khí là tinh khí sinh ra từ thuỷ cốc, nguồn gốc tại tỳ vị, vận hành trong mạch để hoá sinh huyết dịch có công năng dinh dưỡng toàn thân dinh dưỡng ngũ tạng lục phủ, bổ tán ra ngoài nuôi dưỡng da lông.
Dinh khí đổ vào trung tiêu, trú ở thủ thái âm phế kinh, tuần hoàn ở 14 đường kinh, vận hành liên tục tới các bộ phận.

6.2.3. Vệ khí:

Vệ khí cũng có nguồn gốc từ thuỷ cốc, bắt nguồn từ tỳ vị, đổ vào thượng tiêu vận hành ở ngoài mạch. Bên trong thì phân bố ở các màng có màu đen ở ngực bụng, ở ngoài thì tuần hoàn giữa cơ nhục và bì phu.
Vệ khí có chức năng ôn dưỡng tạng phủ cơ nhục bì phu. Tuy vệ khí vận hành bên ngoài mạch song cũng dựa theo đường mạch để phân bố. Ban ngày hành ở phần dương ở biểu ở thủ túc tam dương kinh mạch. Ban đêm hành ở phần âm tức ở ngũ tạng xuất phát từ túc thiếu âm thận kinh, sau đến tâm phế can tỳ rồi trở lại thận.

6.2.4. Tông khí:

Dinh khí, vệ khí hoá sinh từ thuỷ cốc cùng với khí trời được nạp vào tạng phế trung tiêu, tương hợp với nhau thành tông khí. Khí hải là nơi tích tụ của khí, là điểm xuất phát lưu hành của khí toàn thân; sau khi tuần hoàn toàn thân lại trở về khí hải. Khí ở khí hải được gọi là Tông khí; bên trên tông khí đi vào hầu họng để thực hiện quá trình hô hấp đi vào mạch tâm để vận hành khí huyết. Tông khí liên quan mật thiết với nguyên khí, đều vận hành trong kinh mạch, duy trì sức sống cho cơ thể.

6.3. Thần.

Thần là tinh thần, ý thức, tri giác, tư duy… Nó chi phối tất cả các hoạt động của con người. Tinh là cơ sở vật chất của thần, tức là do tinh tiên thiên sinh ra. Thần của sinh mệnh được hình thành ngay từ lúc bào thai hình thành. Tuy thần sinh ra từ tiên thiên song được tinh hậu thiên nuôi dưỡng.
Thần sung thịnh cơ thể khoẻ mạnh. Thần suy nhược cơ thể yếu đuối.
Thần bao gồm hồn, phách, ý chí… được tàng ở các tạng, can tàng hồn, phế tàng phách, tỳ tàng ý, thận tàng chí. Do vậy đông y quan niệm “Ngũ tạng sở tàng”. Điều đó có nghĩa là mỗi một tạng đều có sự liên quan đến các hoạt động của tinh thần. Tuy nhiên ở mức độ cao thấp khác nhau. Ví dụ tạm là quân chủ tàng thần còn các tạng khác đều tàng từng mặt của hoạt động tinh thần. Do vậy hoạt động của tinh thần đều liên quan mật thiết đến các tạng. Ví dụ:
- Can tàng hồn. Hồn là dương khí của can là một trong những hoạt động của tinh thần con người song đó là hoạt động tinh thần ở mức độ thấp. Người ta quan niệm rằng mắt nhìn được là do có hồn từ can chuyển đến. Ngủ được là do hồn trở về can. Do vậy nếu chức năng can tàng hồn tốt thì mắt sáng thị lực tốt, giấc ngủ sâu, yên giấc, ngược lại thì thị lực giảm, ngủ hay mơ mộng hoặc xuất hiện chứng mộng du (đang ngủ lại đứng dậy đi mà không biết gì) nặng hơn thì xuất hiện chứng ảo giác, hoang tưởng… Chức năng can tàng hồn liên quan mật thiết với can tàng huyết. Các loại thuốc liên quan đến chức năng can tàng hồn đó là thuốc bổ khí bổ huyết, bổ âm, thuốc an thần, trấn kinh...
- Tỳ tàng ý: ý cũng là một trong những hoạt động của tinh thần. Đó là biểu hiện của phạm vi ý thức, hồi ức, là hoạt động đặc hữu của con người. Chức năng này tốt đưa lại cho con người tư duy tốt, trí nhớ tốt. Ngược lại hay lo âu, tư lự. Trạng thái này kéo theo những ảnh hưởng xấu cho tỳ.
- Phế tàng phách: phách là một trong những hoạt động của tinh thần ở mức độ thấp thuộc phạm vi của những hoạt động bản năng và cảm giác theo tính bản năng như động tác bú mẹ, khóc, cười của trẻ sơ sinh; hoặc cảm giác nóng lạnh, đau ngứa của da... Phế tàng phách tốt sẽ đưa lại sự chính xác về động tác, nhạy bén về cảm giác... Ngược lại sẽ dẫn đến trạng thái vụng về lóng ngóng về động tác; tinh thần thiếu linh hoạt, trơ ì về cảm giác.
- Thận tàng chí: chí là một trong những hoạt động của tinh thần ở mức độ cao, mang tính ý thức và kinh nghiệm. Nó thuộc phạm trù hoạt động đặc hữu của loài người. Chức năng này tốt thể hiện tính sáng tạo, quyết đoán và kỹ năng tinh xảo của con người. Ngược lại sẽ biểu hiện trạng thái tinh thần mệt mỏi thiếu ý chí, thiếu quyết đoán, trí nhớ suy giảm.

Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI, 
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

CÂY RAU LÀM THUỐC - KHOAI NƯA

Khoai nưa hay Khoai na - Amorphophallus paeoniifolius (Dennst.) Nicols, = A. campanulatus (Roxb.) Blume ex Decne, thuộc họ Ráy - Araceae. Cây thảo sống lâu năm, có thân củ nằm trong đất; củ hình bán cầu, rộng đến 20cm, mặt dưới lồi mang một số rễ phụ và có những nốt như củ khoai tây chung quanh có 3-5 mấu lồi; vỏ củ màu nâu, thịt trắng vàng và cứng. Lá mọc sau khi đã có hoa, thường chỉ có một lá có cuống cao tới 1,5m được gọi là dọc (cọng) dọc màu xanh sẫm có đốm bột; phiến chia làm 3 nom tựa như lá Ðu đủ. Cụm hoa gồm một mo to màu đỏ xanh có đốm trắng, mặt trong màu đỏ thẫm, bao lấy một bong mo là một trục mang phần hoa cái ở dưới, phần hoa đực ở trên. Khoai nưa phân bố ở Ấn độ, Myanma, Trung quốc, Việt nam, Campuchia, Malaixia, Inđônêxia, Philippin. Ở nước ta, khoai nưa mọc hoang rải rác ở khắp các vùng rừng núi, được bà con nhiều địa phương đem về trồng từ lâu đời ở trong vườn, quanh bờ ao, dọc hàng rào và trên các đồi để làm thức ăn cho người và gia súc, gặp nhiều ở các tỉnh Lạng s...

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.