Nghệ hay Nghệ vàng - Curcuma longa L. = C. domestica Valet, thuộc họ Gừng - Zingiberaceae. Cây thảo cao khoảng 1m. Thân rễ to, hình củ tròn, có các nhánh hình trụ hay hình thoi, thịt màu vàng da cam. Thân mang lá mọc hằng năm. Lá có cuống dài, hình trái xoan mũi mác, dài 25-45cm, rộng tới 15-l8cm, nhẵn cả hai mặt, màu lục nhạt; cuống lá có bẹ. Hoa hợp thành những bông hình trụ; cánh hoa và cánh môi đều màu vàng, các lá bắc màu lục, những cái ở ngọn màu tím. Quả nang chia 3 ô.
Nghệ gốc ở Ấn độ và cũng được trồng nhiều tại nước này cũng như ở nhiều nước thuộc châu Mỹ la tinh, châu Phi, châu Úc, châu Á, châu Âu trong phạm vi vĩ tuyến thứ 40, trên và dưới đường xích đạo. Ở nước ta, Nghệ cũng mọc hoang và được trồng khắp nơi; mỗi gia đình ở nông thôn thường trồng ít nhiều để dùng.
Người ta dùng củ Nghệ làm gia vị trong ăn uống. Đem phơi và nghiền ra, Nghệ là thành phần của bột cary. Nghệ là loại gia vị khử mùi tanh của cá, ốc, lươn.
Nghệ còn cho những vị thuốc thiết dụng trong Y học dân tộc. Thân rễ của Nghệ gọi là Khương hoàng. Trong củ Nghệ, có nhựa, curcumin (0,76-1,1%), tinh đầu (trên 15%), chất béo, tinh bột. Curcumin và tinh dầu có tính chất thông mật, lợi mật; ở nồng độ thấp, tinh dầu còn có tính kháng khuẩn.
Nghệ được sử dụng nhiều làm thuốc giúp cho tiêu hoá, chữa các bệnh về mật và gan, phụ nữ sinh đẻ xong bị đau bụng. Còn có tác dụng chống loét dạ dày, làm giảm tiết dịch vị, làm giảm độ acid của dịch vị và có tác dụng chống viêm (ta thường dùng thuốc viên Nghệ, Kim truật, Melamin), Nghệ dùng ngoài, bôi lên mụn nhọt, vết thương mới khỏi làm cho chóng lên da non và tránh làm seo. Nghệ là loại thuốc trị loét tốt (dùng dưới dạng nước ép trong một thời gian dài).
Trong Y học dân tộc, người ta dùng Nghệ rất nhiều. Để phòng bệnh sau khi sinh đẻ, người ta cho sản phụ ăn một củ Nghệ nướng, uống với rượu hay đồng tiện. Sau khi đẻ, nếu máu xông lên tim, người ta dùng Nghệ đốt tồn tính, tán bột cho uống 3g mỗi ngày với giấm. Trẻ em lên cơn suyễn, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở, dùng 1 lạng Nghệ giã nát, hoà với đồng tiện vắt lấy nước cốt uống. Trĩ lở, đau trong tai, lấy Nghệ mài ra bôi hay nhỏ vào tai.
Ở nước ta, còn có một số loài Nghệ khác như Nghệ vàng (Curcuma xanthorrhiza Roxb.) dùng như Nghệ, Nghệ bột (Curcuma pierreana Gagnep.) trồng lấy bột ở củ. Còn có hai loài Nghệ trắng (Curcuma aromatica Salisb.) và Nghệ xanh, Nghệ tím (C. zedoaria (Berg.) Rosc.) đều được sử dụng làm thuốc.
Trích từ sách: Cây Rau Làm Thuốc
của PTS Võ Văn Chi
do NXB TH Đồng Tháp ấn hành
Xem thêm: THÔNG TIỂU TIỆN VÀ THÔNG MẬT - Nghệ
Xem thêm: CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - NGHỆ
Xem thêm: CÂY RAU CÂY THUỐC - NGHỆ
Nhận xét
Đăng nhận xét