HỌC THUYẾT KINH LẠC
I. GIỚI THIỆU HỌC THUYẾT KINH LẠC
Học thuyết kinh lạc là một trong những học thuyết cơ bản của y học cổ truyền phương Đông. Học thuyết nghiên cứu sự biến hoá bệnh lý và hoạt động sinh lý của con người.
Kinh là là đường thông của khí huyết vận hành trong cơ thể. Kinh là những đường được phân bố theo chiều dọc của cơ thể, còn lạc là những đường nhánh nhỏ nối liền giữa các đường kinh, làm thành một mạng lưới hoàn chỉnh, thông suốt trên dưới trong ngoài liên hệ giữa các tạng phủ và các cơ quan khác nhau. Kinh lạc phân bố khắp cơ thể da, thịt, xương, khớp lục phủ ngũ tạng, ngũ quan, cửu khiếu.
Học thuyết kinh lạc đã chứng minh về phương diện sinh lý, bệnh lý, chẩn đoán điều trị đều có ý nghĩa quan trọng. Nó trở thành lý luận chỉ đạo lâm sàng về các mặt lý pháp phương dược. Nội dung của học thuyết kinh lạc bao gồm 2 bộ phận kinh mạch và lạc mạch, trong đó phần kinh mạch gồm 12 kinh chính và 8 kỳ kinh là nhâm mạch và đốc mạch, xung, đới, âm kiều, dương kiều, âm duy dương duy. Lạc mạch có biệt lạc, phù lạc, tổng lạc.
Biệt lạc tương đối lớn có tới 15, trong đó 12 kinh chính và nhâm mạch đốc mạch đều có chia ra thành các biệt lạc.
Phù lạc là những lạc đi ngoài da. Phần lạc mạch được chia nhờ từ các mạch chính nói trên gọi là tổng lạc.
II. KINH CHÍNH
- Hướng đi của dương kinh: đường kinh âm hướng từ tạng ra ngoài. Đường kinh dương hướng từ ngoài vào phủ.
- Hướng đi của 12 đường kinh chính.
- 3 kinh âm ở tay hướng đi từ tạng ra tay.
- 3 kinh dương ở tay hướng đi tay lên đầu, vào phủ
- 3 kinh dương ở chân hướng từ đầu xuống chân, vào phủ.
- 3 kinh âm ở chân hướng từ chân vào tạng:
+ 3 kinh âm ở tay xuất phát từ bộ phận ngực đi theo mặt trong của cánh tay để xuống tới đầu chót của ngón tay.
+ 3 kinh dương ở tay từ các điểm chót của ngón tay (tiếp cận với các điểm cuối của 3 kinh âm), đi theo phía sau của cánh tay mà lên bộ phận đầu mặt.
+ 3 kinh dương ở chân từ bộ phận đầu mặt (tiếp cận với bộ phận cuối cùng của 3 kinh dương ở tay) đi xuống phía dưới mé ngoài chân để xuống các móng ngoài ngón chân.
+ 3 kinh âm ở chân lại từ kẽ các ngón chân (tiếp với bộ phận cuối cùng của 3 kinh dương ở chân) mà đi lên phần ngực bụng.
- Các kinh âm phân bố ở mé trong tay, chân và bụng còn các kinh dương phân bố ở mé ngoài tay, chân, phía lưng. Trong đó các kinh thiếu âm ở mặt trước, quyết âm ở giữa, thiếu âm ở phía sau.
Nhâm mạch nằm chính giữa bụng từ huyệt thừa tương đến huyệt hội âm. Đốc mạch nằm chính giữa sống lưng. Phía trên từ huyệt ngân giao đi thẳng lên giữa đỉnh đầu. Phía dưới tận cùng ở huyệt trường cường.
Một số đường kinh chính.
2.1. Thủ thái âm phế kinh (gọi tắt kinh phế)
- Bắt đầu từ trung tiêu, một đường đi xuống đại tràng qua tâm vị => cơ hoành => lên phế => ra nách => đi mặt trong của cánh tay => cẳng tay => cổ tay, cuối cùng đến huyệt thiếu thương (cách góc móng tay 2mm phía trong). (Xem hình 9).
- Công dụng của đường kinh phế: Điều trị các bệnh dương hô hấp như ho, suyễn, ho ra máu, đoản khí, đau ngực, bệnh của tay.
Hình 9. Thủ thái âm phế kinh
2.2. Thủ quyết âm tâm bào kinh (gọi tắt tâm bào kinh)
Tâm bào kinh xuất phát từ trong ngực thuộc vùng tâm bào lạc, hướng xuống dưới qua cơ hoành → xuống bụng liên lạc thượng trung hạ tiêu. Một nhánh khác ở trong ngực đi qua ngực sườn, qua hố nách đi theo chính giữa cánh tay, cẳng tay và đến tận cùng ở huyệt trung xung (đầu chót của ngón tay giữa) (Xem hình 10).
- Công dụng chung của đường kinh tâm bào: dùng để điều trị các bệnh tạng tâm, đau ngực, đau bụng trên, bệnh tinh thần, tâm quý, buồn nôn, bệnh ý.
Hình 10. Thủ quyết âm tâm bào kinh
2.3. Thủ thiếu âm tâm kinh (kinh tâm)
- Đường kinh khởi đầu từ trong tim thông qua cơ hoành xuống tiểu tràng. Nhánh khác cũng xuất phát từ tâm đi lên phía trên sát thực quản → lên tới mắt huyệt thừa khấp (trong hốc mắt, sát xương hốc mắt dưới). Đồng thời từ tâm xuống ở nách → men theo mé trong cẳng tay → cánh tay → bàn tay → ngón tay út huyệt thiếu xung (cách góc móng tay út về phía trong 2mm). (Xem hình 11)
- Công dụng của đường kinh tâm: dùng điều trị các bệnh tạng tâm, bệnh tinh thần, tâm quý, tâm đau quặn, tâm phiền, mất ngủ hay quên...
Hình 11. Thủ thiếu âm tâm kinh
2.4. Thủ dương minh đại tràng kinh (kinh đại tràng).
- Đường kinh bắt đầu từ góc móng tay ngón trỏ đi lên theo ngón tay mé ngoài cẳng tay → cánh tay → hõm vai trên xương đòn. Từ đó một nhánh lên trên sang bên đối diện, tận cùng ở huyệt nghinh hương (cách cánh mũi phía dưới 5mm). (Xem hình 12). Đồng thời từ hõm xương đòn có một nhánh xuống đại tràng.
- Công dụng của đường kinh đại tràng: đường kinh và các huyệt của nó dùng cho bệnh đau răng, phù mặt, ngạt mũi, viêm sưng họng, đau cánh tay, viêm đại tràng.
Hình 12. Thủ dương minh đại tràng kinh
2.5. Thủ thiếu dương tam tiêu kinh (tam tiêu kinh)
- Đường kinh bắt đầu từ cạnh góc móng ngón tay nhẫn phía ngoài 2mm dọc ngón nhẫn mé ngoài → cổ tay → giữa cẳng tay → giữa cánh tay → vai → hõm vai. Từ đó có một nhánh đi lên cổ → vành sau tai → tới đuôi lông mày. Một nhánh đi vào vùng tâm bào, qua cơ hoành đến bụng. (Xem hình 13)
- Công dụng của đường kinh: dùng điều trị các bộ phận vùng đầu, mắt, tai họng, tay, các bệnh tuần hoàn, sốt rét, cảm mạo.
Hình 13. Thủ thiếu dương tam tiêu kinh
2.6. Thủ thái dương tiểu trường kinh (kinh tiểu trường).
- Đường kinh bắt đầu từ cạnh góc móng ngón tay út về phía ngoài 2mm → dọc lên ngón tay út → mé ngoài bàn tay → mé ngoài cẳng tay → lên vai hõm xương đòn. Một nhánh lên cổ → má, ngang mũi lại chia làm 2 nhánh ngắn, một ra trước tai, một vào phía đầu mắt. Từ hõm xương đòn một nhánh đi xuống tim → xuống bụng → tiểu tràng. (Xem hình 14).
- Công dụng của đường kinh tiểu tràng: chữa ù tai, đau cổ, đau vai, cánh tay, các bệnh thuộc tiểu tràng tuần hoàn.
Hình 14. Thủ thái dương tiểu trường kinh.
2.7. Túc thái âm tỳ kinh (kinh tỳ)
- Đường kinh bắt đầu từ góc móng mé trong ngón chân cái, đi lên theo mé trong bàn chân → mé trong cẳng chân → mé trong đùi → mé bên bụng. Từ bụng chia 2 nhánh nhỏ một lên tim, một lên dạ dày, lá lách. Cũng từ bụng một nhánh tiếp tục lên mé bên sườn → lên ngực → lên yết hầu. Từ ngực có một nhánh nhỏ xuống nách. Xem hình 15
- Công dụng đường kinh tỳ: chữa bệnh của thực quản, bụng trướng đầy, ỉa chảy, phù thũng, kinh nguyệt nhiều, đau vùng chân.
Hình 15. Túc thái âm tỳ kinh
2.8. Túc quyết âm can kinh (kinh can).
- Đường kinh bắt đầu từ góc móng chân cái phía ngoài, cách góc móng 2mm (huyệt đại đôn) đi lên bàn chân lên mặt xương chày lên mé trong giữa đùi lên bụng → rẽ sang hạ sườn → từ đó có một nhánh lên gan, một nhánh lên đầu hành tá tràng rồi tụ lại rẽ về gan. Cũng từ điểm hội tụ này có một nhánh xuống mật, một nhánh lên phổi và một nhánh lên ngực → lên cổ → lên mặt và lên đầu. Xem hình 16.
- Công dụng của đường kinh can: trị các bệnh đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, tay chân co quắp, đau sườn, ngực, tiêu hoá bất chấn, nôn mửa, sán khí, tiết niệu không bình thường.
Hình 16. Túc quyết âm can kinh
2.9. Túc thiếu âm thận kinh (kinh thận)
- Đường kinh bắt đầu từ gan bàn chân (huyệt dũng tuyền), vòng lên mắt cá chân (phía trong) → lên cổ chân → theo mép xương chày → lên mé đùi → vào hông → lên thận → xuống bàng quang → ra phía ngoài bụng → xuống bụng dưới → vòng lên bụng trên, đường kinh luôn cách rốn 0,5 thốn. Xem hình 17.
- Công dụng của đường kinh thận: chữa hoa mắt, tai ù, ỉa chảy mạn tính, di tinh, liệt dương, phù thũng, tiêu ứa, tiểu tiện nhiều lần, đau lưng, đau gối, họng khô, tâm quý...
Hình 17. Túc thiếu âm thận kinh
2.10. Túc dương minh vị kinh (kinh vị)
- Đường kinh bắt đầu từ cạnh mũi đi lên mi mắt dưới → đi xuống má → môi trên → cạnh khoé miệng → xuống cằm → vòng lên góc tóc → xuống họng → xuống ngực, ở bộ phận bụng có nhánh vào dạ dày → lá lách. Đồng thời ở bộ phận bụng nói trên có nhánh đi thẳng xuống bụng (phần ngực bụng đường kinh đi cách nhâm mạch 2 thốn), xuống đùi → mặt giữa đùi phía trước → cẳng chân mặt ngoài xương chày → bàn chân (ngón chân thứ hai) tận cùng ở gốc móng phía ngoài cách móng 2mm (huyệt lịch thuyết). (Xem hình 18)
- Công dụng chung của đường kinh vị: điều trị đau dạ dày, nôn, đau răng, phù mặt, họng sưng đau, bệnh ở chân.
Hình 18. Túc dương minh vị kinh
2.11. Túc thiếu dương đởm kinh (kinh đởm)
- Đường kinh bắt đầu từ mé ngoài của đuôi mắt → xuống tai → vòng lên góc tóc trán → xuống mé bên đầu → ngang phía sau tai → vòng lên đầu xuống trán → từ trán lại ngược lên mé bên đầu tạo thành đường vòng cung với đường nói trên → xuống gáy cổ → đi theo mé sườn bụng → xuống đùi đi chính giữa mặt đùi ngoài → cẳng chân → bàn chân và tận cùng ở huyệt túc khiếu âm (góc phía ngoài ngón chân thứ 4). (Xem hình 19)
- Công dụng của đường kinh: chữa đau nửa đầu, đau mạng sườn, hoàng đản, miệng đắng, đau chân.
Hình 19. Túc thiếu dương đởm kinh
2.12. Túc thái dương bàng quang kinh (kinh bàng quang).
- Đường kinh bắt đầu từ góc phía đầu con mắt đi lên trán, vòng qua đầu → xuống chân tóc gáy ở điểm đó chia 2 nhánh xuống lưng, cùng chạy song song với đường chính giữa cột sống, đường trong cách giữa sống 1 thốn 5, đường ngoài cách đường trong 1 thốn 5, tức là cách đường chính giữa cột sống 3 thốn. Cả hai đường đều xuống hông, xuống mặt sau của đùi rồi cùng gặp nhau ở nếp kheo chân. Từ đó có một đường chạy dọc xuống bắp chân phía sau (phía bụng chân) hết bụng chân thì chạy chếch ra mé ngoài của xương mác vòng dưới mắt cá ngoài → dọc theo bàn chân để đến tận cùng ở huyệt chí âm (góc móng ngón út phía ngoài cách góc móng 2mm). Đồng thời từ đoạn ngang thắt lưng (L2) có một đường đi vào thận và bàng quang. (Xem hình 20)
Hình 20. Túc thái dương bàng quang kinh
- Công dụng của đường kinh bàng quang: chữa đau mắt, đau đỉnh đầu, đau lưng, đau chân (phía sau), bệnh thần kinh, đau thần kinh toạ.
2.13. Đốc mạch.
- Đường kinh bắt đầu từ phía trong bụng dưới đi ra qua hội âm hướng ra phía sau đi dọc giữa cột sống lên tới đỉnh đầu xuống trán qua chính giữa mũi xuống môi trên tận cùng ở huyệt ngận giao, giữa và phía trong của lợi và môi trên. (Xem hình 21).
- Công dụng của đường kinh đốc mạch: chữa trị đau lưng, đau cột sống, đau đầu, chữa bệnh tinh thần, ngất choáng, câm điếc...
Hình 21. Đốc mạch
2.14. Nhâm mạch.
- Đường kinh bắt đầu từ phía trong bụng dưới hạ xuống huyệt hội âm, hướng ra phía bụng dưới ➝ đi thẳng lên chính giữa đường rốn ➝ ngực ➝ cổ họng ➝ tận cùng ở huyệt thừa tương (hõm dưới môi dưới và cằm). (Xem hình 22)
- Công dụng của đường kinh nhâm mạch: chữa di tinh, di niệu, bí tiểu, sa tử cung, đau bụng kinh nguyệt không đều, ỉa chảy, đau dạ dày, đau vùng trước tim, hen suyễn, nuốt đau, cứng lưỡi, câm.
Hình 22. Nhâm mạch.
III. HUYỆT VỊ
- Huyệt là những điểm nằm trên đường kinh (hoặc ngoài kinh), khi tác động vào đó một kích thích (châm, bấm cứu...) đưa lại cho con người một cảm giác gọi là Đắc khí. Huyệt được mô tả là điểm lưu thông khí huyết.
- Đắc khí là cảm giác tổng hợp: căng tức, giật tê, mỏi nóng.
- Khi châm cứu phải lấy được cảm giác “đắc khí” mới có thể đạt được yêu cầu của việc chữa bệnh.
- Nếu huyệt vị thuộc các đường kinh chính đã mô tả ở trên thì phần lớn chúng nằm ở các giao điểm của các lạc với đường kinh, hoặc ở các góc, hốc của xương mà đường kinh đi qua.
- Cách lấy huyệt: dựa vào đơn vị đo là thốn của mỗi người để xác định vị trí của huyệt.
1 thốn là khoảng cách của 2 đầu ngấn đốt giữa ngón tay giữa, khi ta đặt tiếp xúc đầu ngón giữa với ngón cái tạo thành một vòng tròn một cách tự nhiên.
3 thốn là khoảng cách của 4 ngón tay khép kín từ út đến trỏ, lấy mốc từ giữa khớp đốt 2-3 ngón tay trỏ.
- Một số khoảng cách được xác định theo thốn trên cơ thể. (Xem hình 23)
Hình 23. Thốn xác định theo các vị trí trên cơ thể.
- Hiện nay theo con số thống kê được, có tới 690 huyệt nằm trên 12 đường kinh, có nhiều huyệt mới (tân huyệt) có giá trị trong điều trị. Cần nắm được một số khái niệm về tên các huyệt vị:
- Huyệt a thị (thiên ứng huyệt) tương ứng với chỗ đau.
- Huyệt nguyên: nơi tập trung khí huyết nhiều nhất của một kinh. Như vậy trên 12 đường kinh chính có 12 huyệt nguyên. Ví dụ huyệt thái uyên (kinh phế), thái xung (kinh can).
- Huyệt lạc: huyệt nằm trên đường kinh, song có ý nghĩa liên quan với đường kinh biểu lý với chính nó. Ví dụ huyệt công tôn nằm trên kinh tỳ, song liên quan biểu lý với đường kinh vị, huyệt phong long là huyệt lạc kinh vị liên quan với kinh tỳ.
- Huyệt du: huyệt nằm trên đường kinh bàng quang, liên quan với tạng phủ như can du, phế du, thận du, tỳ du...
- Huyệt mộ: nằm ở đường kinh đi qua ngực bụng, tương ứng với các tạng phủ, có 12 huyệt mộ.
- Huyệt khích: huyệt trên một đường kinh, song là huyệt thể hiện các cảm giác của phủ tạng. Dùng để chẩn đoán bệnh.
- Huyệt hội: là nơi gặp nhau của 2 đường kinh trở lên. Ví dụ huyệt tam âm giao.
- Huyệt ngũ du: huyệt của mỗi đường kinh, song có vị trí từ khuỷu tay đến bàn tay, từ đầu gối đến bàn chân.
IV. Ý NGHĨA CỦA KINH MẠCH VÀ HUYỆT VỊ
4.1. Quy kinh thuốc.
Mỗi đường kinh đều liên quan trực tiếp với một tạng hoặc phủ nhất định. Mỗi vị thuốc có thể quy nạp khí vị tác dụng của nó vào một hay nhiều đường kinh đó. Trên cơ sở quy kinh này mà đưa lại tác dụng cho vị thuốc, và dựa vào tác dụng đó người ta tiến hành điều trị các bệnh khác nhau. Riêng phần quy kinh thuốc sẽ được giới thiệu kỹ ở phần Dược học cổ truyền.
4.2. Xoa bóp, bấm huyệt.
Dựa vào các đường kinh người ta tiến hành xoa bóp bấm huyệt để chữa các bệnh trong tạng phủ và các bộ phận trong cơ thể.
4.3. Dựa vào các huyệt để chẩn đoán bệnh.
Ví dụ đau ruột thừa thường có đau ở huyệt lan vị hoặc huyệt túc tam lý. Bệnh phổi thường đau ở huyệt phế du.
4.4. Dựa vào huyệt để tiến hành châm cứu.
Châm cứu là hai thủ thuật để tiến hành kích thích trên huyệt
Châm là dùng thủ pháp "dùng kim" để tác dụng lên huyệt. Có thể châm bổ hoặc châm tả theo các chứng cho phù hợp. Có thể theo dõi bảng 4.
Bảng 4: Đặc điểm của thủ pháp bổ tả
Yếu
tố khi châm |
Châm
bổ |
Châm
tả |
Hướng
mũi kim |
Xuôi
theo đường kinh |
Ngược
theo đường kinh |
Tốc
độ châm |
Châm
từ từ, rút kim nhanh |
Châm
nhanh rút kim nhanh |
Cường
độ vê kim |
Nhẹ |
Mạnh |
Tần
số vê |
Ít |
Nhiều |
Thời
gian lưu kim |
Lâu |
Ngắn |
Đóng
mở huyệt |
Ấn vít huyệt sau châm |
Không vít huyệt, đôi khi kích thích huyệt |
V. THUỐC CỨU
Thuốc cứu là một dạng thuốc của y học cổ truyền được chế từ ngải cứu (Artemisia vulgaris L.) Dùng thuốc cứu để tác động lên huyệt.
- Các dạng thuốc cứu:
+ Dạng trực tiếp:
Bột ngải nhung (lá ngải cứu phơi khô, tán mịn sẽ xốp như bông) ngải nhung được cuốn vào giấy bản thành điếu dài 20cm, đường kính 1,5cm. Dạng thuốc này sẽ đốt cháy một đầu, rồi hơ vào huyệt vị cần dùng để trị bệnh. Cũng có thể hơ trực tiếp vào chỗ đau (a thị huyệt). Khi cứu cần phải giữ khoảng cách nhất định từ phần đầu cháy của điếu cứu đến huyệt để tạo ra cảm giác đủ nóng (tránh bỏng) tức đủ làm sung huyệt vùng cứu để giảm đau.
+ Dạng cứu gián tiếp:
Mồi cứu được đặt gián tiếp qua một dược liệu trung gian. Mỗi mồi cứu được lượng hoá bằng cách lấy 3 ngón tay cái, trỏ, giữa; nhúm lấy chất bột ngải nhung, tạo thành một khối hình tứ diện.
Dược liệu cứu trung gian là những lát gừng tươi hay lát tỏi tươi được cắt ngang củ, có bề dày 1,5-2mm, trên mặt có 5-6 lỗ thông nhỏ.
- Đặt dược liệu cứu trung gian lên huyệt vị cần cứu (hoặc a thị huyệt), tiếp đó là đặt mồi ngải cứu lên trên.
- Đốt lửa từ chóp mồi (từ phía trên đỉnh mồi cứu). Khi cháy được 1/3 lượng mồi cứu từ phía trên thì phải dập tắt ngay để tránh gây bỏng cho bệnh nhân.
- Cơ chế của thuốc cứu: sức nóng của mồi cứu gây sung huyệt các mao mạch ở huyệt vị làm da nóng đỏ. Sức nóng được truyền vào kinh lạc và vào các tạng phủ tương ứng để điều trị những bệnh cần thiết.
- Trong khi cứu cần phải chú ý: không cứu liều lượng quá lớn, thời gian quá lâu, để tránh gây bỏng cho người bệnh và không cứu ở các huyệt vị trên mặt.
VI. THUỐC CAO DÁN
Cao dán có nhiều loại, loại chế từ các dược liệu rán với dầu thực vật (dầu vừng, dầu lạc...) cô đến thể chất nhất định sau chế thêm hồng đơn (PbO) và một số thành phần kết tinh có trong tinh dầu như long não, methol, borneol... Loại cao chế theo cách này gọi là cao dán đen. Ngoài ra còn có cao dán trắng (cao thượng hồng...) cao có cốt cao su để làm chất dính pha thêm một số tinh dầu, hoặc một số thành phần có trong tinh dầu dưới dạng kết tinh như acid salicylic, long não...
- Cao dán được phết lên một lớp vải hoặc da (cấu bì cao = cao da chó), cắt thành từng mảnh hoặc miếng nhỏ có diện tích tương đương với huyệt vị cần điều trị, sau đó có thể hơ nóng nhẹ rồi dán lên huyệt.
- Cơ chế: các thành phần hoá học có trong các loại cao nói trên cùng với các chất dẫn thấm qua da, sẽ kích thích lên các huyệt vị, sự kích thích đó được truyền vào kinh lạc và tạng phủ hay bộ phận cần điều trị. Nói chung cao dán có tác dụng làm thông kinh hoạt lạc, chỉ thống. Do đó được dùng trong các trường hợp đau xương khớp, đau cơ nhức và đau dây thần kinh...
Ngoài các loại cao dán nói trên, còn có loại cao dán để làm tan mụn nhọt (thành phần bao gồm các dược liệu mang tính hoạt huyết tiêu ứ như kê huyết đằng, đại vu (củ ráy dại, lá đại...) hoặc cao dán với tính chất như hút mủ gồm các dược liệu mang tính bài nùng (tiêu mủ và hút mủ) như lá liễu, lá táo...
Trích nguồn từ sách: "DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN"
của TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI,
Bộ môn DƯỢC HỌC CỔ TRUYỀN, NXB Y HỌC
Nhận xét
Đăng nhận xét