Chuyển đến nội dung chính

RAU XANH CHỮA BỆNH THÔNG THƯỜNG - VIÊM NIÊM MẠC MIỆNG, HÔI MIỆNG

RAU XANH CHỮA BỆNH THÔNG THƯỜNG - VIÊM NIÊM MẠC MIỆNG, HÔI MIỆNG

Khi bị ảnh hưởng bởi sức ép công việc, ăn uống không điều độ, ngủ ít đều dễ khiến cơ thể bốc hỏa, cơ quan chịu ảnh hưởng trực tiếp là khoang miệng xuất hiện mùi hôi, niêm mạc miệng bị viêm làm cho người ta đau đớn khó chịu, rất bất tiện trong sinh hoạt.
Nếu ăn một số loại rau có tính mát sẽ giúp cơ thể hạ hỏa, thanh nhiệt, giải độc, miệng hết hôi, tinh thần sang khoái.

CÁC MÓN CHỮA HÔI MIỆNG, VIÊM NIÊM MẠC MIỆNG

1. Nước củ cải
Nguyên liệu: Củ cải trắng 1/2 củ.
Cách làm:
- Củ cải gọt vỏ, thái miếng nhỏ.
- Cho vào máy xay sinh tố xay nhuyễn, khi uống pha thêm ít nước sôi để nguội.
Tác dụng chữa bệnh: Tiêu độc, chữa hôi miệng do táo bón.

2. Nước rau hỗn hợp
Nguyên liệu: Cà rốt 1 củ, dưa chuột 1 quả, ớt Đà Lạt 1 quả, cải bó xôi 50g.
Cách làm:
- Rửa sạch các loại rau trên, thái nhỏ.
- Cho vào máy xay sinh tố xay nhuyễn.
Tác dụng chữa bệnh: Ngày uống ít nhất 1 lần, có hiệu quả thanh hỏa trừ độc, sạch miệng, làm cho viêm niêm mạc miệng chóng lành.

3. Nước rễ cải trắng, táo đỏ
Nguyên liệu: Rễ cải trắng 70g, mầm tỏi 20g, táo đỏ 10 quả.
Cách làm:
- Rễ cải trắng rửa sạch, thái đoạn, mầm tỏi rửa sạch.
- Cho hai thứ trên vào nồi, đổ nước đun kỹ, sắc lấy nước, mỗi ngày uống 2 lần.
Tác dụng chữa bệnh: Chữa viêm niêm mạc miệng.

4. Mướp đắng trộn đường
Nguyên liệu: Mướp đắng 1 quả, đường trắng đủ dùng.
Cách làm:
- Mướp đắng rửa sạch, giã nát.
- Cho đường vào trộn đều, mướp mướp đắng trong 2 giờ, sau đó bỏ nước, ăn mướp đắng.
Tác dụng chữa bệnh: Tiêu độc trừ hỏa, chữa đau răng do nóng trong.

5. Nước rễ bí ngô
Nguyên liệu: Rễ bí ngô đủ dùng.
Cách làm:
- Rễ bí ngô rửa sạch, cho vào nồi, đổ nước đun kỹ.
Tác dụng chữa bệnh: Ngày uống 2 lần, chữa đau răng.

Rau xanh dinh dưỡng - Hành tây

Hành tây là loại rau không những có công dụng hạ huyết áp rất tốt, mà còn có tác dụng khống chế mỡ, giảm cholesterol, kháng khuẩn tiêu viêm. Nước cốt hành tây có tác dụng sát khuẩn nên thường được dùng để tăng cường sức để kháng cho cơ thể.
Hành tây còn có tác dụng phòng ung thư, tăng cường trương lực của dạ dày và ruột, thúc đẩy sự tiết dịch của đường ruột, giảm béo.

Bài viết được trích từ sách: RAU XANH CHỮA BỆNH
của Nguyễn Hữu Thụy, NXB Phụ Nữ ấn hành.
Hy vọng bài viết có ích lợi cho các bạn quan tâm.



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Chữa Tê Thấp và Đau Nhức - Chay

Còn gọi là Cây Chay. Tên khoa học Artocarpus tonkinensis A. Chev. Thuộc họ Dâu tằm Moraceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Diếp Cá

Còn có tên là cây lá giấp , ngư tinh thảo . Tên khoa học Houttuynia cordata Thunb. Thuộc họ Lá giấp Saururaceae. A. Mô tả cây. Cây diếp cấ là một loại cỏ nhỏ, mọc lâu năm, ưa chỗ ẩm ướt có thân rễ mọc ngầm dưới đất. Rễ nhỏ mọc ở các đốt, thân mọc đứng cao 40cm, có lông hoặc ít lông. Lá mọc cách, hình tim, đầu lá, hơi nhọn hay nhọn hẳn. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, không có bao hoa, mọc thành bông, có 4 lá bắc màu trắng; trông toàn bộ bề ngoài của cụm hoa và lá bắc giống như một cây hoa đơn độc, toàn cây vò có mùi tanh như cá. Hoa nở về mùa hạ vào các tháng 5-8. (Hình dưới).

Chữa Cảm Sốt - Cỏ Mần Trầu

Còn gọi là ngưu cân thảo, sam tử thảo, tất suất thảo, cỏ vườn trầu, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cheung kras (Campuchia), mia pak kouay (Lào). Tên khoa học Eleusine indica (L.) Gaertn. (Cynosurus indica L.) Thuộc họ Lúa Poaceae (Gramineae).

CÂY THUỐC TRỊ BỆNH THÔNG DỤNG - DIẾP CÁ

Còn gọi là Dấp cá, rau Dấp, cây lá Giếp (Houttuynia cordata Thunb) thuộc họ lá Giấp (Saururaceae). Mô tả: Cây thảo cạo 20-40cm, Thân màu lục troặc tím đỏ. Lá mọc sọ le, hình tim, có bẹ, khi vò ra có mùi tanh như mùi cá. Cụm hoa hình bông bao bởi 4 lá bắc màu trắng, gồm nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt. Hạt hình trái xoan nhẵn. Mùa hoa quả: tháng 5 – 7.

Chữa Bệnh Tiêu Hóa - Vối

Tên khoa học Cleistocalyx operculatus (Roxb). Merr et Perry (Eugenia operculata Roxb., Syzygium nervosum DC.). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA MỤN NHỌT MẨN NGỨA - Đơn Tướng Quân

Tên khoa học Syzygium formosum var , ternifolium (Roxb) Merr. et Perry (Eugenia ternifolia Roxb., Eugenia formosa var. ternifolia (Roxb) Duth). Thuộc họ Sim Myrtaceae.

CHỮA BỆNH PHỤ NỮ - Cây Hoa Cứt Lợn

Còn có tên là cây hoa ngũ sắc, cây hoa ngũ vị, cỏ hôi. Tên khoa học Ageratum conyzoides L. Thuộc họ Cúc Asteraceae(Compositae). A. Mô tả cây Cây hoa cứt lợn là một cây nhỏ, mọc hàng năm, thân có nhiều lông nhỏ mềm, cao chừng 25-50cm, mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta. Lá mọc đối hình trứng hay 3 cạnh, dài 2-6cm, rộng 1-3cm, mép có răng cưa tròn, hai mặt đều có lông, mật dưới của lá nhạt hơn. Hoa nhỏ, màu tím, xanh. Quả bế màu đen, có 5 sống dọc (Hình dưới).

Đắp vết thương Rắn Rết cắn - Phèn Đen

Còn gọi là nỗ. Tên khoa học Phyllanthus reticulatus Poir. Thuộc họ Thầu dầu Euphorhiaceae.

Chữa bệnh Tim - Vạn Niên Thanh

Còn gọi là thiên niên vận, đông bất điêu thảo, cửu tiết liên. Tên khoa học Rhodea japonica Roth. Thuộc họ Hành Alliaceae. Cần chú ý ngay rằng tên vạn niên thanh ở nước ta thường dùng để gọi nhiều cây khác nhau. Cây vạn niên thanh ta trồng làm cảnh là cây Aglaonema siamense Engl, thuộc họ Ráy Araceae. Còn cây vạn niên thanh giới thiệu ở đây thuộc họ Hành tỏi, hiện chúng tôi chưa thấy trồng ở nước ta, nhưng giới thiệu ở đây để tránh nhầm lẫn.

TOA THUỐC ĐÔNG Y CỔ TRUYỀN VIỆT NAM - CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG

CHỮA DẠ DÀY, TÁ TRÀNG 18 Bài thuốc Năm 1951 ở chiến khu Ð (Nam Bộ) có nhiều cán bộ và chiến sĩ đau dạ dày, chúng tôi phải tốn tiền nhiều để mua biệt dược ở Thành nhưng nào có giải quyết gì được. Tôi không thỏa mãn với cách giải quyết tận gốc bệnh được vì nghĩ rằng ở địa phương có một số nguyên liệu như kaolin chẳng hạn. Tôi khởi sự điều tra trong cơ quan và bộ đội, nguyên nhân nào làm cho đau dạ dày, có khi loét nữa. Kết quả điều tra là trong bộ đội có nhiều người đau hơn cơ quan, ở cơ quan thì nam giới đau nhiều hơn nữ giới. Lý do là vì công tác cho nên bộ đội phải ăn gấp, ăn nhanh hơn ở cơ quan. Ở cơ quan thì “nam thực như hổ, nữ thực như miêu” cho nên nam đau nhiều hơn nữ. Khi ta ăn nhanh thì không có thời giờ để cho nước miếng thấm vào thức ăn cho nên xuống dạ dày thì cơ thể phải tiết acide ra nhiều mới thủy phân được.